Trong những năm gần đây kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại và đã bộc lộ những dấu hiệu khó khăn về tài chính và doanh nghiệp. Một vài phân khúc của khu vực doanh nghiệp có kết quả kinh doanh nghèo nàn, gặp khó khăn về tài chính và đã ảnh hưởng đến sức khỏe của hệ thống ngân hàng.
Một số doanh nghiệp nhà nước (SOE) lớn đã mất khả năng thanh toán nợ và một số khác có biểu hiện vay nợ quá mức. Hệ thống ngân hàng đã tích tụ một lượng lớn nợ xấu (NPL) được ước tính một cách thận trọng là 12% trên tổng dư nợ tại thời điểm cuối năm 2012.
Trong cùng giai đoạn đó, nhiều ngân hàng nhỏ đã có vấn đề về thanh khoản và khả năng thanh toán ở mức độ nghiêm trọng hơn, dẫn đến việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV) phải can thiệp. Năng lực cho vay của hệ thống ngân hàng bị giảm là một trong những yếu tố đã góp phần làm cho tăng trưởng tín dụng giảm mạnh.
Kết quả hoạt động yếu kém của khu vực tài chính là do cách bố trí phức tạp của các yếu tố thể chế và giám sát. Các yếu tố này bao gồm một vài biểu hiện can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương vào các quyết định đầu tư và tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng thương mại nhà nước; cấu trúc quản trị và năng lực quản trị rủi ro của các tổ chức này còn chưa đầy đủ; cơ sở hạ tầng tài chính yếu kém, bao gồm cả các chuẩn mực báo cáo tài chính nghèo nàn; và hoạt động quản lý và giám sát tài chính có khiếm khuyết. Trong bối cảnh này, tín dụng thường tăng trưởng quá mức và được phân bổ kém hiệu quả. Kinh tế vĩ mô biến động ngày càng tăng trong 5 năm vừa qua đã làm cho tình hình thêm khó khăn và chất lượng của các khoản vay sụt giảm hơn.
Đối với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp thì hệ thống tài chính của Việt Nam là lớn, với tổng tài sản lên đến 200% GDP vào năm 2011. Khu vực ngân hàng chi phối hệ thống tài chính, với tổng tài sản tương đương 183% GDP (bao gồm cả hai ngân hàng chính sách) và 92% tài sản của các định chế tài chính. Hệ thống ngân hàng có quy mô lớn so với chuẩn quốc tế xét theo tiền gửi hoặc tín dụng. Tiền gửi ngân hàng đã tăng đáng kể trong thập niên vừa qua, phản ánh tỷ lệ tiết kiệm cao, tăng trưởng kinh tế nhanh và sự phát triển chậm hơn của các công cụ tiết kiệm phù hợp khác.
Đến năm 2011, tỷ lệ tiền gửi so với GDP đã vượt xa các chuẩn liên quan. Tỷ lệ tín dụng so với GDP cũng tăng mạnh trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 2007 – 2010, do tỷ lệ đầu tư rất cao và cũng đã vượt đáng kể các chuẩn có liên quan trong cùng thời kỳ.
Mặc dù có quy mô lớn so với chuẩn quốc tế, nhưng sự phát triển của hệ thống tài chính trong những năm gần đây có nhiều biến động, phản ánh môi trường bất ổn bên ngoài cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô thất thường.
Tăng trưởng tín dụng có diễn biến thất thường kể từ năm 2006, thể hiện qua việc tín dụng tăng đột ngột rồi giảm mạnh. Trong năm 2007, tín dụng tăng 54%/năm (tương đương 20% GDP) chủ yếu do luồng vốn vào lớn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Vào cuối năm 2008, tín dụng và hoạt động kinh tế đã chậm lại do tác động của khủng hoảng toàn cầu, buộc các cơ quan chức năng phải ứng phó. Việc nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ đã gây ra một đợt bùng nổ tín dụng khác vào năm 2009 và 2010, dẫn đến một đợt thắt chặt chính sách và tín dụng giảm mạnh trong năm 2011. Lo ngại về việc có thể đã thắt chặt quá mức, trong bối cảnh môi trường toàn cầu suy yếu, đã đưa đến một đợt nới lỏng mạnh chính sách khác trong năm 2012 bằng cách cắt giảm lãi suất và thực hiện một nhóm các biện pháp hành chính. Tuy nhiên, dù đã nới lỏng chính sách nhưng lần này tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp, phản ánh chất lượng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng đã suy giảm và đòi hỏi phải giảm tỷ lệ đòn bẩy. Mặc dù tình hình kinh tế vĩ mô có vẻ đã ổn định kể từ năm 2012, nhưng vẫn cần có một chương trình kết nối chặt chẽ để xử lý các điểm yếu của hệ thống tài chính.
Trong khi khu vực ngân hàng có quy mô lớn thì quy mô của các định chế tài chính phi ngân hàng và thị trường chứng khoán vẫn còn nhỏ. Các định chế tài chính phi ngân hàng (bao gồm cả quỹ tín dụng nhân dân) chỉ chiếm 17% GDP và 8% tổng tài sản của các định chế tài chính.
Các công ty tài chính cung cấp tài chính dự án và tiêu dùng, đồng thời là nhóm lớn nhất trong khối các định chế tài chính phi ngân hàng với quy mô tương đương 6% GDP và 3% tổng tài sản của các định chế tài chính. Các công ty bảo hiểm chiếm 4% GDP, trong khi đó các quỹ tương hỗ chỉ chiếm dưới 1% GDP và các quỹ hưu trí tư nhân là không đáng kể. Quỹ Bảo hiểm Xã hội (SSF) là nhà đầu tư thể chế duy nhất có quy mô đáng kể, chịu trách nhiệm quản lý quỹ dự trữ lương hưu tương đương 6,5% GDP.
Thị trường cổ phiếu đã tăng trưởng nhanh chóng nhưng vẫn còn phát triển ở giai đoạn sơ khai. Mặc dù số lượng các công ty niêm yết trên hai sàn chứng khoán đã tăng đáng kể, chủ yếu do “cổ phần hóa” SOE, nhưng tổng giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu còn tương đối thấp, chỉ bằng 20% GDP trong năm 2011. Điều này phản ánh thực tế là các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam nhìn chung đều có quy mô nhỏ. Thị trường trái phiếu có quy mô vừa phải với trái phiếu chính phủ chiếm đa số.
Mức độ tham gia của nhà nước vào lĩnh vực ngân hàng là lớn và theo cả hình thức liên kết sở hữu trực tiếp và gián tiếp. Vào cuối năm 2011, 5 ngân hàng thương mại nhà nước (SOCB) chiếm gần 40% tài sản và 48% tiền gửi khách hàng của khu vực ngân hàng. Tổng mức tham gia của nhà nước vào hệ thống ngân hàng thương mại còn lớn hơn nếu tính cả phần vốn góp của nhà nước, SOE và SOCB tại một số ngân hàng cổ phần (JSB) trong số 34 JSB – phân khúc tăng trưởng nhanh nhất và hiện chiếm tới một nửa tổng tài sản của khu vực ngân hàng. Tỷ trọng của khối ngân hàng nước ngoài trong tổng tài sản của khu vực ngân hàng thương mại vẫn còn nhỏ và ổn định ở mức 10%.
Hệ thống ngân hàng cũng có đặc điểm là mức độ sở hữu chéo cao giữa các ngân hàng với nhau và giữa các ngân hàng và doanh nghiệp. Mức độ sở hữu này bao gồm sở hữu các JSB bởi các ngân hàng khác (cả SOCB và JSB khác) và bởi các tập đoàn kinh tế (gồm cả SOE) với cấu trúc chưa hiểu rõ được. Cơ cấu cổ đông phức tạp đã gây ra những quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và hoạt động cho vay bên có quan hệ hoặc liên quan, nhằm tài trợ cho các dự án thiếu minh bạch. Cơ cấu này cũng đã dẫn đến tình trạng phóng đại vốn do cho vay mua cổ phần lẫn nhau và đã tạo điều kiện lách các quy định an toàn như giới hạn tập trung tín dụng.
Kết quả hoạt động của khu vực ngân hàng đã xấu đi trong những năm gần đây và có lẽ còn kém hơn so với báo cáo. ROA bình quân của tất cả các ngân hàng giảm từ 1,8% năm 2007 xuống 0,5% năm 2012, trong đó con số 0,5% có vẻ là đã bị phóng đại do chất lượng số liệu tài chính còn thấp.
Nói một cách khái quát hơn thì chất lượng số liệu tài chính thấp đã ảnh hưởng đến việc đo lường một cách chính xác hầu hết các chỉ số hiệu quả hoạt động như ROA, tỷ lệ NPL và các hệ số vốn. Yếu kém về số liệu bắt nguồn từ một số yếu tố như các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng còn chưa thỏa đáng (bao gồm cả việc phân loại các khoản nợ được tái cơ cấu), định giá tài sản thế chấp không đáng tin cậy và phân loại một số tài sản nhất định là cần đặt dấu hỏi. Thêm vào đó, còn có những quan ngại về việc xác định giá trị các tài sản phi tín dụng lớn trên bảng cân đối của các ngân hàng, đặc biệt là xác định chưa đầy đủ các khoản đầu tư (một số khoản liên quan đến các nghiệp vụ nhằm báo cáo thấp NPL) và thiếu minh bạch khi báo cáo về các hạng mục khác như các khoản phải thu.
Như đã trình bày ở trên, do tình trạng sở hữu chéo phổ biến nên hoạt động cho vay góp vốn mua cổ phần lẫn nhau cũng là nội dung cần lưu ý.
Chất lượng danh mục cho vay và mức vốn của một số ngân hàng là những vấn đề rất đáng lo ngại. Do những yếu kém về số liệu đã nêu ở phần trên, nên số liệu báo cáo tài chính đã được điều chỉnh trên cơ sở các giả định không quá chặt chẽ. Việc điều chỉnh như vậy đã làm cho tỷ lệ NPL tăng lên 12% vào cuối năm 2012 và làm giảm mạnh tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của một số ngân hàng. Kết quả kiểm định sức chịu đựng, sử dụng các số liệu đã điều chỉnh, cho thấy các ngân hàng có nguy cơ gặp phải rủi ro tín dụng và rủi ro tập trung cao. Phân tích độ nhạy với những thay đổi về giả định đã xác nhận các phát hiện chính, mặc dù chất lượng số liệu tài chính còn thấp và đòi hỏi phải dựa vào các giả định để tính toán, đồng nghĩa với việc các kết quả ước tính khi kiểm tra sức chịu đựng có khoảng tin cậy rộng.
Phân tích bổ sung về khu vực doanh nghiệp niêm yết cũng cho kết quả nhất quán. Rất nhiều ngành kinh tế đang hoạt động kém, đặc biệt là các ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, bất động sản, tài nguyên thô và điện nước, dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế.
Có điểm thú vị là dù các SOE niêm yết là nhóm có kết quả hoạt động tốt nhất của khu vực SOE, nhưng nhóm này vẫn có vẻ gặp nhiều khó khăn hơn so với các đối tác tư nhân niêm yết của họ. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn có chất lượng tín dụng cơ bản thấp. So với các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp này có thể gặp khó khăn trong việc trả nợ vì vay nợ nhiều hơn, có trạng thái thanh khoản yếu hơn và tập trung hoạt động vào các ngành công nghiệp có hiệu quả thấp.
(Chương trình đánh giá khu vực tài chính (FSAP) đưa ra một khuôn khổ tổng thể nhằm xác định các vấn đề dễ bị thương tổn của hệ thống tài chính cũng như đề xuất xây dựng các phản ứng chính sách thích hợp. Ghi nhận tầm quan trọng của chương trình này, Chính phủ Việt Nam đã chủ động đề nghị Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế triển khai chương trình FSAP cho Việt Nam từ tháng 7/2012. Báo cáo Đánh giá khu vực tài chính (FSA) là phần tổng hợp của toàn bộ chương trình FSAP – trong đó đưa ra các đánh giá về sự ổn định và tiềm năng phát triển của hệ thống tài chính. Chủ đề chuyện sâu của Báo cáo Điểm Lại kỳ này giới thiệu lại các thông điệp chính của báo cáo FSA, đã được Ngân hàng Nhà nước công bố công khai vào ngày 29-8-2014).