Giai đoạn 2006 – 2010, tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân đạt 13,8 tỷ USD, vượt 16%. Đến giai đoạn 2011 – 2015, dự kiến vốn ODA cam kết khoảng 32-34 tỷ USD, giải ngân khoảng 14-16 tỷ USD, trong đó khoảng 50% vốn giải ngân từ các chương trình và dự án đã ký kết trong giai đoạn 2006-2010 chuyển sang.
“Nghẽn” giải ngân, dự án đội vốn
Theo Ts. Trịnh Ngọc Tuấn, Vụ kinh tế (Văn phòng Quốc hội), kết quả thu hút vốn ODA tăng mạnh đã đóng góp quan trọng làm tăng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Dẫn chứng, các ngành giao thông vận tải, năng lượng và công nghiệp, môi trường và phát triển đô thị chiếm tỷ trọng khá lớn (năm 2014 trên 70%). Các ngành nông nghiệp, nông thôn và xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực thể chế, phát triển nguồn nhân lực… chiếm khoảng trên 20%.
Ts. Nguyễn Viết Lợi, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, cho biết tỷ lệ vốn vay trong tổng vốn ODA có xu hướng tăng từ 80% (1993 – 2000) lên mức 81% (2001-2005), 93% (2006 – 2010) và hiện ở mức 96%.
Tỷ trọng ODA so với GDP ngày càng cao, trong giai đoạn 2004-2014, chiếm trung bình khoảng 3,25% so với GDP, một tỷ trọng không lớn song có thể thấy tác động tích cực trong việc kích cầu đầu tư, góp phần duy trì đà tăng trưởng. Việt Nam cũng được các nhà tài trợ đánh giá là nước tiếp nhận và sử dụng ODA tương đối tốt.
Các dự án của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam đạt tỷ lệ thành công 82,1%, cao hơn tỷ lệ của một số nước như Ấn Độ (65,2%), Indonesia (63,2%), Philippines (45,5%). Tỷ lệ thành công của các dự án của Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) ở Việt Nam tương đương với mức trung bình thế giới.
Các chuyên gia cho rằng cần có chính sách sử dụng vốn hiệu quả
Tuy nhiên, tiến độ giải ngân các nguồn vốn trong thời gian vừa qua vẫn còn chậm so với tiến độ cam kết. Mức giải ngân giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương còn chưa đồng đều. Một kết quả nghiên cứu đáng chú ý của ADB chỉ ra, việc chậm tiến độ thi công thường dẫn đến phụ trội chi phí khoảng 14%. Đơn cử, như dự án thủy lợi Phước Hòa, chi phí tăng 101%; dự án cao tốc Nội Bài – Lào Cai tăng 15% và dự án mạng giao thông miền Trung tăng 51%…
Trong khi đó, năng lực tổ chức và quản lý ODA ở các cấp, ngành còn những hạn chế, để xảy ra tình trạng thất thoát, lãng phí. Thậm chí là tham nhũng tại một số dự án đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Việt Nam đối với các nhà tài trợ cũng như làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, hiệu quả dự án đang được triển khai.
Việc đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng còn mang tính nguyên tắc, chưa được cụ thể hóa. Cùng với đó là hoạt động giám sát, nhất là đối với các cơ quan của Quốc hội chưa được chú trọng đúng mức.
Lo gánh nặng nợ công
Theo PGs. Ts. Nguyễn Ngọc Sơn, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, vốn ODA làm gia tăng nợ công và nợ nước ngoài. Dẫn chứng, viện trợ phát triển chính thức, viện trợ không hoàn lại chỉ chiếm không quá 25% nguồn vốn, còn lại phần lớn là khoản vay ưu đãi. Do đó, ODA sẽ làm gia tăng nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài.
Theo báo cáo chính thức của Chính phủ, nợ công cuối năm 2013 bằng 54,2%, dư nợ chính phủ bằng 42,3%, nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết năm 2014, dư nợ công bằng 60,3% (tăng 6,1%), dư nợ chính phủ bằng 46,9%, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Theo con số tuyệt đối thì nợ công cuối năm 2013 lên gần 1,9 triệu tỉ đồng, hết năm nay dự kiến sẽ lên hơn 2,4 triệu tỉ.
Do vốn dễ tiếp cận mà trách nhiệm của người đi vay không cao nên các dự án sử dụng vốn ODA có nguy cơ quản lý kém hiệu quả, nảy sinh tham nhũng, hối lộ giữa nhà thầu và bên đại diện dự án.
Các hành vi tiêu cực này sẽ được hạch toán vào chi phí thực hiện khiến cho chi phí công trình bị đội lên rất cao. Nhưng do là vay nợ ODA nên cuối cùng gánh nặng nợ được chi trả bằng tiền thuế mà người dân đóng góp.
Khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình, điều kiện vay sẽ chặt chẽ hơn, ODA đắt đỏ hơn. Điều này sẽ làm cho các vấn đề về nợ nước ngoài sẽ trở nên phức tạp hơn”, PGS.TS. Sơn đánh giá.
Đặt trong bối cảnh xu hướng vốn vay ODA đang thay đổi mạnh mẽ theo hướng giảm dần vốn vay ưu đãi, vay thương mại tăng lên với yêu cầu ngày càng khắt khe, GS.TS. Vương Đình Huệ, Ủy viên trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, cho rằng cần phải có những cơ chế, chính sách phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu duy trì nợ công bền vững.
Trong đó, tỷ trọng ưu tiên 70% vốn tiếp nhận được từ ODA là hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay theo cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia.
Đồng thời, mở rộng cơ chế cho vay lại đối với chính quyền địa phương; giảm thiểu rủi ro từ biến động về tỷ giá, lãi suất trên thị trường vốn quốc tế làm tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ; hạn chế tình trạng chuyển sang cơ chế đầu tư vốn nhà nước gây sức ép tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ.