Theo một báo cáo mới nhất từ Ngân hàng HSBC với chủ đề “Navigator: hiện tại, tương lai và ý nghĩa đối với doanh nghiệp (DN)”. Theo đó, các DN bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng của các chính sách bảo hộ ngày càng tăng, nhưng vẫn khá lạc quan về triển vọng giao thương quốc tế của họ. Trong số 6.000 DN được khảo sát trên toàn cầu, hơn 3/4 (77%) DN lạc quan về triển vọng kinh doanh quốc tế của mình, và kỳ vọng khối lượng thương mại sẽ tăng trong vòng 12 năm tới. Với Việt Nam, con số này là 90%, một số cao hơn đáng kể so với trung bình trên thế giới.
Lý do đằng sau sự tự tin này do các DN tin vào nhu cầu từ người tiêu dùng đối với hàng hóa của họ ngày càng tăng (33%), điều kiện kinh tế thuận lợi (31%) và khả năng tận dụng công nghệ tốt hơn (22%), đây là 3 yếu tố thúc đẩy tăng trưởng. Các DN tại Việt Nam cũng cho rằng nhu cầu của người tiêu dùng tăng (40%) và điều kiện kinh tế thuận lợi (42%), là 2 yếu tố chính giúp tăng trưởng, trong khi lo ngại yếu tố thứ ba là việc giảm chi phí vận chuyển, hậu cần và kho bãi. Việt Nam không nằm trong 10 thị trường với tỷ lệ cao khi DN cho rằng việc ứng dụng công nghệ sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh doanh.
Liên quan đến kế hoạch tăng trưởng trong tương lai, 62% các DN kỳ vọng nhu cầu cho tài trợ thương mại tăng. Trong khi 88% DN Việt Nam đồng ý với quan điểm này, 86% kỳ vọng khả năng tiếp cận nguồn vốn sẽ tăng theo. Các DN toàn cầu cho rằng 3 thách thức chính để đạt được nhu cầu về tài trợ vốn là chi phí giao dịch cao (52% DN Việt Nam đồng ý), bất ổn tỷ giá (44% DN Việt Nam đồng ý) và môi trường chính trị. Nhưng Việt Nam không nằm trong 10 thị trường có tỷ lệ cao DN cho rằng môi trường chính trị là thách thức lớn, bởi nhờ vào sự ổn định chính trị.
3/4 (61%) DN được khảo sát cho rằng các chính phủ đang ngày càng trở nên bảo hộ đối với các nền kinh tế trong nước. Nhận định này được thể hiện mạnh mẽ nhất tại các DN khu vực Trung Đông và Bắc Phi (70%), châu Á-Thái Bình Dương (68%). Tại Việt Nam, tỷ lệ này là gần 3/4 (67%) DN đồng ý với nhận định cho rằng các chính phủ đang ngày càng trở nên bảo hộ.
Để vượt qua thử thách này, phần lớn các DN đang tìm kiếm các đối tác thương mại trong khu vực để phát triển các cơ hội kinh doanh, với gần 3/4 (74%) các hoạt động giao thương tại châu Âu và châu Á-Thái Bình Dương sẽ được thực hiện trong nội vùng. Xu hướng này sẽ được tiếp tục khi các hoạt động giao thương trong khu vực được ưu tiên trong các kế hoạch mở rộng kinh doanh của DN trong 3-5 năm tới. Việt Nam sẽ tập trung vào các đối tác thương mại chính tại châu Á và Hoa Kỳ là đối tác lớn ngoài châu Á.
Ông Noel Quinn, Tổng Giám đốc phụ trách Khối Dịch vụ Ngân hàng DN Toàn cầu, Tập đoàn HSBC, nhận định: “Nhìn chung, các DN hiện đang khá linh hoạt trong việc ứng phó với các chính sách thương mại đang thay đổi liên tục, thông qua việc thích ứng các kế hoạch kinh doanh, và các mối quan hệ thương mại để tham gia vào sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng. Các chiến lược các DN thực hiện bao gồm tăng cường thương mại trong khu vực, thành lập liên doanh hoặc các công ty con tại các thị trường, và tận dụng các xu hướng nhu cầu tiêu dùng và các công nghệ kỹ thuật số”.
Với tất cả những thuận lợi này, Việt Nam đang ở vị thế khá thuận lợi để nắm bắt các cơ hội đến từ tăng trưởng về thương mại và đầu tư. Ngoài việc hỗ trợ các chính sách ủng hộ thương mại của Chính phủ như RCEP và tầm nhìn ASEAN 2025, cũng như hiểu rõ ý nghĩa của các hiệp định thương mại như CPTPP, các DN cần xây dựng chiến lược để nâng cao giá trị trong chuỗi cung ứng, áp dụng các công nghệ kỹ thuật số, hợp tác với các DN trong và ngoài nước và dần giảm sự phụ thuộc vào thế mạnh nhân công chi phí thấp để có thể nắm bắt được các lợi ích đến từ xu hướng này một cách bền vững nhất.