Khi nhà đầu tư do dự
Khi mùa công bố lợi nhuận đi vào hồi kết thì các tin tức về vĩ mô sẽ được các nhà đầu tư (NĐT) chú ý. Tuy nhiên, trái với kỳ vọng, thị trường đã nhận những thông tin được đánh giá không mấy tích cực. Đó là thông tin giá điện tăng 5%, lên bình quân 1.508,9 đồng/kwh (chưa bao gồm VAT) và theo ước tính của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, nếu giá điện tăng 1% sẽ làm CPI tăng khoảng 0,07%.
Chi phí đầu vào tăng trong khi giá bán ra bị buộc phải hạ sẽ tác động rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Như vậy, việc tăng giá điện dự kiến sẽ ảnh hưởng đến CPI các tháng cuối năm và có thể mục tiêu giữ lạm phát năm nay dưới mức 7% sẽ khó thực hiện thành công. Kế đến là thông tin chỉ số HSBC PMI tháng 7/2013 của Việt Nam được công bố chỉ đạt 48,5 điểm, tức vẫn ở dưới mức trung bình (50 điểm). Và đây là tháng thứ ba liên tiếp chỉ số biểu thị cho lĩnh vực sản xuất giảm sút. Từ đây, có thể thấy doanh nghiệp sẽ tiếp tục hứng chịu những khó khăn mới là chi phí đầu vào chắc chắn tăng trong khi giá bán lại không tăng được do nhu cầu tiêu dùng suy yếu.
Điều này sẽ tác động rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong khi đó, kinh tế vẫn đang phải đối mặt với những rủi ro cũ còn tồn đọng như nhu cầu kém, nợ xấu, tiến trình tái cơ cấu diễn ra chậm chạp. Theo giới chuyên gia, nếu nhu cầu trong nước không được cải thiện sẽ gây khó khăn cho tiến trình phục hồi bền vững của kinh tế và ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% trong năm 2013.
Về động thái bán ròng của khối ngoại, trong hai tháng gần đây, khối ngoại đã rút ròng hơn 3.900 tỷ đồng ra khỏi thị trường chứng khoán (TTCK). Trong đó chủ yếu là dòng vốn đầu cơ vào các quỹ ETF được các NĐT tiến hành hiện thực hóa lợi nhuận, và do một số rủi ro liên quan đến diễn biến của thị trường tài chính thế giới.
Một quy luật thường thấy các năm trước là dòng vốn của NĐT nước ngoài vào TTCK Việt Nam thường chia ra 4 giai đoạn: Tích cực (tháng 1-4), chốt lời (tháng 5-6), trầm lắng (tháng 7-9) và tham gia trở lại (tháng 11-12). Như vậy, tác động tiêu cực từ việc bán ròng của ETF có thể được giảm thiểu trong tháng 8.
Nhưng xu hướng của dòng vốn ngoại sẽ được quyết định sau tháng 9 khi các rủi ro hiện tại về việc cắt giảm gói nới lỏng định lượng của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) và tiến độ phục hồi tại các nền kinh tế phát triển rõ ràng hơn.
Từ những phân tích trên, cộng với tình hình giao dịch và thanh khoản khá ảm đạm trong những ngày cuối tháng 7 và đầu tháng 8, có thể thấy giới đầu tư đang ý thức khá rõ về thực trạng hiện nay của nền kinh tế.
Kỳ vọng gì?
Trong bối cảnh như vậy, những thông tin nào sẽ được thị trường kỳ vọng? Theo tình hình hiện tại, hai thông tin được kỳ vọng là sự ra đời và đi vào hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và thông tin tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa cho NĐT ngoại (room).
Việc VAMC chính thức đi vào hoạt động (cuối tháng 7/2013) nhưng đã không tác động mấy thị trường là do NĐT bắt đầu kỳ vọng vào hiệu quả hoạt động, thay vì kỳ vọng vào thông tin như trước đây.
CTCP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng các NHTM hiện nay đã có thêm công cụ mới là bán nợ cho VAMC, bổ sung cho phương án trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu như trước đây. Tuy nhiên, niềm tin đối với VAMC chưa thể được gây dựng bởi một số khó khăn như các tổ chức tín dụng đang cân nhắc giữa quyền lợi và nghĩa vụ để lựa chọn có bán nợ xấu cho VAMC hay không.
Tính minh bạch của quá trình mua bán nợ xấu; khả năng chuyên môn của VAMC trong việc xử lý các khoản nợ sau khi mua lại; một số vấn đề khác liên quan đến việc chiết khấu trái phiếu “đặc biệt”, giá trị thu hồi các khoản nợ xấu, con số nợ xấu thực tế…
Thêm vào đó, mục tiêu đề ra cho năm 2013 của VAMC là xử lý 40.000-70.000 tỷ đồng nợ xấu, nhưng trong thời gian còn lại của năm thì mục tiêu trên là khó khả thi. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu tại các nước lân cận cho thấy, thời gian trung bình để hoàn thành các khâu của quá trình đưa tỷ lệ nợ xấu về mức cho phép là khoảng 4-5 năm.
Về tăng room cho khối ngoại, thông tin từ Bộ Tài chính cho hay, bộ này đã hoàn tất việc lấy ý kiến các bộ ngành liên quan và sắp trình lên Thủ tướng Chính phủ dự thảo tăng room cho NĐT nước ngoài và dự kiến sẽ có kết quả chính thức trong năm nay.
Dự thảo bao gồm đề xuất tăng thêm 10% tỷ lệ sở hữu cổ phần không có quyền biểu quyết ở các công ty niêm yết và thí điểm tăng 10% cổ phần có quyền biểu quyết ở những ngành kinh doanh không điều kiện và không nhạy cảm.
Nếu Chính phủ thông qua (khả năng rất lớn) thì một lượng vốn lớn của NĐT ngoại sẽ tham gia vào TTCK. Đây có thể là yếu tố tích cực, tác động đến giá một số cổ phiếu đã kín room. Thống kê trong số gần 700 doanh nghiệp niêm yết cho thấy, chỉ có khoảng 3% doanh nghiệp đã hết room dành cho các NĐT nước ngoài, khoảng 5% doanh nghiệp nhận được sự quan tâm lớn từ khối ngoại và có đến 73% doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài dưới 10%.
Thống kê này cho thấy khối ngoại chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với một số ít doanh nghiệp chứ không phải toàn bộ cổ phiếu đang niêm yết. Đồng thời những ngành luôn nhận được sự quan tâm của họ là bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, dầu khí, y tế, hàng tiêu dùng…
Từ những phân tích trên, có thể thấy cả hai thông tin chỉ phát huy tầm ảnh hưởng trong trung hạn, nhưng ngắn hạn NĐT vẫn có thể lựa chọn những mã mà khối ngoại ưa thích để đón đầu dòng vốn ngoại một khi room được mở thêm.