Trong 5 tháng đầu năm 2019, vốn FDI cam kết từ Trung Quốc đã tăng hơn 450% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo ông, con số này nói lên điều gì?
– Chúng ta thấy rằng chiến tranh thương mại Mỹ – Trung không chỉ bùng lên trong năm nay mà bắt đầu từ những năm trước nên các doanh nghiệp FDI đầu tư tại Trung Quốc đã có phương án rời khỏi thị trường này. Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng có động thái tương tự để tránh việc bị Mỹ áp thuế.
Đây là lý do dẫn đến sự xuất hiện chuyển dịch nguồn vốn đầu tư sang Việt Nam.Chỉ riêng 5 tháng đầu năm, cam kết đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ở mức rất cao, đạt khoảng 16 đến 17 tỷ USD. Các nhà đầu tư đến từ Hồng Kông và Trung Quốc dẫn đầu với số vốn cam kết lớn nhất.
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam mở cửa hội nhập, ký nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Các FTA giúp hàng hóa sản xuất tại Việt Nam nhận được nhiều cơ chế ưu đãi về thuế. Không chỉ nhà đầu tư Trung Quốc mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng đến Việt Nam đầu tư, cả trực tiếp và gián tiếp. Chúng ta thấy rõ xu thế này đang tăng lên trong những năm vừa qua.
Nó vừa là thành quả của quá trình tái cơ cấu kinh tế vừa là kết quả củanỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô. Việt Nam kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong nhiều năm. Chúng ta giữ ổn định tỷ giá, giữ môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nên chúng ta thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.Như chúng ta đã thấy, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong chặng đường hơn 30 năm qua đã đạt hơn 350 tỷ USD vốn đăng ký và giải ngân được 190 tỷ USD.
Việc tận dụng cơ hội là chuyên môn, chuyên nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài.Nơi nào thị trường ổn định, nơi nào chi phí lao động thấp, nơi nào có nhiều tiềm năng thì họ sẽ đến. Và họ sẵn sàng ra đi nếu như lợi nhuận của họ không đạt và ưu đãi dành cho họ không còn.
Cho nên, Việt Nam phải hết sức bình tĩnh trong việc chọn lọc các nhà đầu tư hiện nay. Phải có chính sách ưu đã cho các nhà đầu tư hướng tới các thị trường công nghệ cao. Vừa qua, Thủ tướng đã đi nhiều nước và luồng vốn đầu tư từ châu Âu hay Hàn Quốc, Nhật Bản đến Việt Nam cũng ngày càng tăng.
Khi FDI mang đến những công nghệ hiện đại, thu hút nguồn đầu tư chất lượng, tham gia đúng chuỗi giá trị, Việt Nam nên làm gì để làm chủ công nghệ hiện đại?
Vấn đề là chúng ta phải có chính sách chọn lọc. Tôi nghĩ rằng có 2 giải pháp chúng ta phải ưu tiên. Thứ nhất là chọn lọc về mặt công nghệ. Phải có hàng rào kỹ thuật để làm việc này. Thứ hai, kết nối được doanh nghiệp FDI với ngành công nghiệp phụ trợ trong nước. Doanh nghiệp nước ngoài nào thỏa mãn được 2 tiêu chí này là những doanh nghiệp được ưu tiên. Có như vậy, chúng ta mới mang được về những lợi thế.
Chúng ta cũng phải hết sức thận trọng đối với đầu tư nước ngoài. Đây là nguồn vốn có thể ra đi ngay khi thấy bất lợi. Trung Quốc là một ví dụ. Cho nên, nếu không kết nối được doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước, thiếu sự bền vững hay không tính toán được việc chuyển giao công nghệ, chúng ta sẽ gặp những khủng hoảng trong tương lai.
Tôi lưu ý thêm, vốn đầu tư ngoại trong đầu tư gián tiếp cũng lớn. Đầu tư gián tiếp là đầu tư mang tính chất “À le de tour”, có nghĩa là họ sẽ bán ngay khi thấy được giá. Đấy là vấn đề chúng ta cần kiểm soát. FDI đổ vào Việt Nam vừa là tín hiệu mừng nhưng cũng vừa phải có những giải pháp để đối phó.
Như đã nói, vấn đề là phải có điều kiện ràng buộc để doanh nghiệp FDI kết nối với các doanh nghiệp trong nước. Chúng ta phải chọn lọc ưu tiên cho những doanh nghiệp đó. Có như vậy, giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi hàng hóa đóng góp cho thế giới mới nhiều hơn.