Nguồn dữ liệu: Reuters Eikon, tác giả tổng hợp. |
Mặc dù tỷ giá USD/VND tăng nhanh 1 tháng qua, biến động của VND đang khá ổn định và giảm ít hơn so với USD khi so sánh với đồng tiền các quốc gia trong khu vực kể từ đầu năm.
Nguồn dữ liệu: Reuters Eikon, tác giả tổng hợp. |
VND cũng giảm giá so với USD ít hơn các ngoại tệ trong rổ xác định tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước.
Nguồn dữ liệu: Reuters Eikon, tác giả tổng hợp. |
Tác giả tính toán. |
Đo sức mạnh VND thông qua chỉ số VND Index (đầu năm, 100). Đây là chỉ số đo sức mạnh của VND so với 7 đồng tiền trong rổ xác định tỷ giá trung tâm của Ngân hàng Nhà nước (EUR, JPY, CNY, KRW, SGD, TWD, THB). Đây cũng là các đồng tiền của các quốc gia có quan hệ thương mại lớn.
Tác giả tính toán dựa trên biến động so với USD của các ngoại tệ và bình quân gia quyền theo tỷ trọng kim ngạch thương mại xuất nhập khẩu (cách tính tương tự chỉ số US dollar index).
Ước tính VND tăng giá 1,07% so với giá trị bình quân của giỏ 7 đồng tiền trên. Giá trị VND duy trì cao, tác động làm giá thành sản xuất của hàng hoá tại Việt Nam đắt hơn tương đối và có thể tác động đến xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh các đồng tiền trong khu vực, thị trường mới nổi và các nước có quan hệ thương mại lớn đang giảm mạnh so với USD, VND vẫn đang được giữ ở mức khá ổn định và giảm giá ít hơn. Tuy nhiên, trong năm ngoái VND cũng đã tăng giá ít hơn các ngoại tệ chính so với USD. Điều này cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã khá thành công trong việc điều hành tỷ giá theo hướng ổn định.
NHNN đã thực hiện mua vào gần 20 tỉ USD từ thị trường trong hai năm qua, và trong ngắn hạn NHNN đang đủ nguồn lực để điều tiết tỷ giá theo những mức giá mục tiêu (các ngân hàng thương mại đã đăng ký mua từ NHNN khoảng hơn 600 triệu USD trong ba ngày giao dịch gần nhất tại giá 23.050 VND/USD).
Tuy nhiên, nếu USD quốc tế vẫn tăng và đồng nhân dân tệ và các đồng tiền chính trong khu vực tiếp tục giảm giá, việc giữ một VND mạnh sẽ gây khó khăn cho Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
Từ đầu năm, NHNN cũng đã tăng tỷ giá trung tâm một cách từ từ (tỷ giá trung tâm tăng 1,51% so với đầu năm), dư địa biến động tỷ giá theo hướng tăng đang rộng hơn. Tốc độ xuất khẩu đang yếu dần trong khi nhập khẩu tăng lên (nhập siêu hai tháng cuối quí 2 đạt 150 triệu USD sau khi xuất siêu 3,89 tỉ USD 4 tháng đầu năm), nếu các yếu tố này tiếp tục duy trì, khả năng điều chỉnh tỷ giá bán ra để phản ánh đúng cung cầu thị trường có thể xuất hiện trong thời gian tới.