Theo quan điểm của ông, những quy định trong dự thảo Thông tư này có khả thi?
Dự thảo Thông tư quy định về cung ứng và sử dụng sản phẩm phái sinh lãi suất của NHTM và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có những bước thay đổi quan trọng so với Quyết định số 62/2006/QĐ-NHNN về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất bằng việc đưa thêm sản phẩm Quyền chọn lãi suất và Hoán đổi lãi suất bắt đầu trong tương lai. Điều này sẽ tránh cho việc các ngân hàng phải xin các giấy phép con cho từng sản phẩm trong tương lai.
Ngoài ra, NHNN cũng đã cho phép các ngân hàng áp dụng tổng các khoản vốn danh nghĩa còn giữ trạng thái mở không vượt quá 15% vốn tự có cấp 1 thay vì tổng các khoản vốn danh nghĩa như Quyết định 62 trước đây. Như vậy, các ngân hàng có thể cung ứng được khối lượng hoán đổi lãi suất lớn hơn trước đây, nếu ngân hàng có thể làm các giao dịch đối ứng để giảm rủi ro.
Tuy nhiên, đối với các dự án lớn, trọng điểm của quốc gia, khách hàng có thể có nhu cầu thực hiện hoán đổi lãi suất liên quan đến VND lớn hơn 15% vốn tự có cấp 1 của ngân hàng. Nhưng ngân hàng cũng không thể làm các giao dịch hoán đổi đối ứng tại thị trường trong nước do thị trường hoán đổi VND chưa phát triển. Do vậy, NHNN có thể xem xét cho phép các ngân hàng được cung cấp vượt 15% vốn tự có cấp 1 nếu có sự chấp thuận riêng của NHNN.
Có ý kiến nhận định, đối tượng sử dụng sản phẩm phái sinh lãi suất được mở rộng hơn, nhưng các quy định tại Dự thảo Thông tư khá chặt chẽ có gây khó cho NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong quá trình thực hiện?
Đúng là Dự thảo Thông tư về cung ứng và sử dụng sản phẩm phái sinh lãi suất của NHTM và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quy định chặt chẽ hơn trong việc cung ứng sản phẩm. Ví dụ: giấy phép thành lập và hoạt động phải có nội dung về cung ứng sản phẩm phái sinh. Ngoài ra, các ngân hàng phải có quy trình chi tiết cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất bao gồm chính sách và giới hạn quản lý sản phẩm, phân tích các rủi ro phát sinh, biện pháp phòng ngừa… Nhưng theo tôi, các quy định này là cần thiết để đảm bảo chỉ có các ngân hàng có thể quản trị rủi ro mới được cung ứng sản phẩm.
Dự thảo Thông tư bổ sung thêm quy định về việc thực hiện giao dịch đối ứng của NHTM. Đây là quy định mới so với Quyết định 62, nhằm tách bạch giữa việc cung ứng sản phẩm phái sinh lãi suất cho khách hàng với việc phòng ngừa rủi ro cho các sản phẩm phái sinh lãi suất. Theo ông quy định mới này có cần thiết?
Theo tôi, quy định về việc thực hiện giao dịch đối ứng của NHTM là hết sức cần thiết để giảm rủi ro, đảm bảo tổng các khoản vốn danh nghĩa ròng (sau khi đã trừ đi các giao dịch đối ứng) không vượt quá 15% vốn tự có cấp 1. Theo quy định tại Quyết định 62, ngân hàng chỉ được giao dịch tối đa 30% vốn tự có, mặc dù ngân hàng có thể làm đối ứng 100% để phòng chống rủi ro. Điều này làm cản trở các khách hàng lớn thực sự muốn phòng chống rủi ro và không muốn phải giao dịch với quá nhiều ngân hàng, do phải ký nhiều hợp đồng khung ISDA và thiết lập hạn mức giao dịch với từng ngân hàng.
Ngoài ra, việc cho phép các NHTM có thể thực hiện giao dịch đối ứng một phần hoặc toàn bộ sản phẩm phái sinh với các NHTM khác trong nước hoặc tổ chức tài chính ở nước ngoài, nhưng yêu cầu các tổ chức này phải có mức xếp hạng tín nhiệm tối thiểu BBB – của Standard&Poor’s hoặc các mức xếp hạng tương đương của Moody’s hoặc Fitchratings là hết sức cần thiết, để đảm bảo các ngân hàng tại Việt Nam giao dịch với các tổ chức tài chính nước ngoài có sức khỏe tài chính lành mạnh. Theo tôi, chúng ta có lẽ nên quy định một mức định hạng tín nhiệm cao hơn nữa để đảm bảo sự an toàn cho các NHTM tại Việt Nam.
Quy định mới giúp cho các ngân hàng không phải chạy xin giấy phép con
Một trong những quy định mới tại Dự thảo Thông tư đó là lãi suất trong hợp đồng thực hiện sản phẩm phái sinh lãi suất do các bên thỏa thuận và cam kết, phù hợp với quy định của NHNN trong từng thời kỳ. Ông có nghĩ rằng NHNN đã “lo xa”?
Theo tôi, quy định này có thể xuất phát từ thực tế một số ngân hàng sử dụng sản phẩm hoán đổi lãi suất để lách trần lãi suất. Tuy nhiên, quy định này có thể làm khó cho việc cung ứng sản phẩm của khách hàng. Ví dụ: một khách hàng đang vay một khoản vay trung hạn 5 năm với lãi suất Libor 6 tháng cộng 2%. Nếu khách hàng này muốn thực hiện hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền để phòng tránh rủi ro về tỷ giá và lãi suất, ngân hàng không thể trả cho khách hàng lãi suất ở mức Libor cộng 2%, vì lãi suất này vượt trần lãi suất huy động tiền gửi USD (theo quy định của NHNN đối với doanh nghiệp) hiện nay là 0,25%. Như vậy, DN không hoàn toàn phòng tránh được rủi ro về tỷ giá và lãi suất.
Vậy ông có kiến nghị, góp ý gì về Dự thảo Thông tư này?
Theo tôi, nhìn chung bản dự thảo Thông tư lần này đã là một bước tiến lớn. NHNN có thể xem xét sửa đổi một số điểm mang tính chất kỹ thuật nêu trên nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển một cách lành mạnh. Chúng tôi hy vọng NHNN sẽ sớm ban hành Thông tư này để tạo một hành lang pháp lý rõ ràng, tạo nền tảng cho sự phát triển của thị trường phái sinh Việt Nam.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!