Tuy được không ít người cho rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nhưng thực tế khi cuộc chiến này nổ ra VN-Index đã có thời điểm mất tới 26% giá trị so với đỉnh điểm 1.204 đạt được vào ngày 9-4 năm nay (xem biểu đồ). Tuy VN-Index đã có sự phục hồi nhưng VN-Index hiện vẫn còn thấp hơn đỉnh điểm này tới 15%.
Chiến tranh thương mại ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán là điều đáng lo ngại. Nhưng, quan trọng hơn là gánh nặng nợ nước ngoài ở các thị trường mới nổi trong bối cảnh hiện tại có thể gây ra những cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng.
Nợ doanh nghiệp ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển hiện đã vượt xa mức trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Rủi ro đi kèm với thực tế này là nợ doanh nghiệp cao sẽ đe dọa ổn định tài chính và làm suy yếu nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng. Những rủi ro này hiển hiện rõ ở Đông Á, nơi có tăng trưởng kinh tế cao nhưng thường dựa trên mức vay nợ cao.
Hành động của chính quyền Trump càng tạo thêm điều kiện để cuộc khủng hoảng nợ xảy ra nhanh hơn, nguy hiểm hơn. Chiến tranh thương mại (và ngoại giao) khiến các nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường chứng khoán của các nước mới nổi, làm cho các doanh nghiệp huy động vốn từ thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng. Họ không thể huy động vốn mới để đáo hạn nợ cũ nữa.
Đến lượt mình, các doanh nghiệp này lại làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp liên đới, là khách hàng vay tín dụng từ hệ thống ngân hàng, nên sẽ kéo theo nạn nhân mới là các ngân hàng khi khách vay không trả được nợ. Theo đó là một cuộc khủng hoảng nợ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Nguy cơ của một cuộc khủng hoảng nợ kèm với việc Mỹ đánh thuế cao lên hàng nhập khẩu vào Mỹ (và ngược lại, các nước khác như Trung Quốc có biện pháp tương tự trả đũa đối với Mỹ) và triển vọng thương mại toàn cầu chậm lại sẽ làm suy giảm mạnh lòng tin và tạo tâm lý bi quan trong giới đầu tư toàn cầu. Cuộc khủng hoảng nợ tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vì thế sẽ lan rộng ra cả những nền kinh tế phát triển.
So với những nền kinh tế tăng trưởng nhanh và có mức nợ doanh nghiệp cao ở châu Á được cho là dễ bị tổn thương bởi cuộc khủng hoảng nợ, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Mức nợ nước ngoài của doanh nghiệp trên GDP ở Trung Quốc là 6,3%, Hàn Quốc là 15,1%, Malaysia là 11,7%, Thái Lan là 9,5%, Indonesia là 9,1% và Ấn Độ là 7,7%.
Ở Việt Nam, chỉ riêng nợ ngắn hạn nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay tự trả tính đến cuối năm 2017 đã là 21,9 tỉ đô la Mỹ(1). Với GDP khoảng 220 tỉ đô la Mỹ, con số nợ nói trên tương đương khoảng 10% GDP của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tính thêm cả nợ vay dài hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, cũng như nợ có bảo lãnh của Chính phủ và nợ của Chính phủ đi vay về cho vay lại thì chắc chắn con số sẽ lớn hơn nhiều, và nhìn chung sẽ cao hơn các nước khác trong khu vực.
Vấn đề trở nên trầm trọng hơn khi trong cùng thời kỳ này các nước phát triển lại bắt đầu nâng dần lãi suất để giảm áp lực lạm phát trên đất nước họ. Điều này góp phần làm “khô hạn” thanh khoản ở các nước mới nổi, đang phát triển, gây khó cho việc huy động vốn của doanh nghiệp nơi này, càng làm tăng rủi ro vỡ nợ, phá sản của chúng.
Rủi ro của một cuộc khủng hoảng nợ mới là kết quả tổng hợp của cuộc chiến thương mại đang ngày càng diễn ra kịch tính hơn, nợ doanh nghiệp tăng cao ở các nền kinh tế mới nổi, và sự thắt chặt tiền tệ ở các nước đang phát triển với Việt Nam có thể đã bộc lộ ở sự căng thẳng về tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ và áp lực tăng lên của lãi suất tiền đồng.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ quốc tế đang rình rập, điều mà Việt Nam có thể làm được để hạn chế phần nào hậu quả là phải nhanh chóng giảm thiểu vay nợ nước ngoài. Hành động này nhằm giảm gánh nặng phải can thiệp để bảo vệ tỷ giá cũng như quỹ dự trữ ngoại hối.
Liên quan đến giảm thiểu vay nợ nước ngoài, nếu cần thiết thì phải hoãn vô thời hạn một số dự án quy mô lớn phát triển sử dụng vốn vay nước ngoài (cả ưu đãi lẫn thương mại) cho đến khi tình hình bất lợi bên ngoài trở nên đỡ rủi ro hơn. Phương châm chính sách trong giai đoạn rối ren này phải là phòng bị, giảm rủi ro, chứ không phải là mở rộng, phát triển để gánh thêm rủi ro.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thân thiện hơn với nhà đầu tư để tiếp tục hấp dẫn và giữ chân dòng vốn đầu tư không chỉ trực tiếp mà còn cả gián tiếp.