Trong 4 tháng đầu năm 2014, nợ xấu của hệ thống TCTD tăng trở lại, nhất là nợ xấu nhóm 5 – có nguy cơ mất vốn – là điểm đáng chú ý trên các báo cáo tài chính của khối nhà băng lớn và nhỏ như Vietcombank, BIDV, ACB, Sacombank, DongAbank, PGbank… “Cơn ác mộng” nợ xấu nếu không được khống chế kịp thời sẽ đe dọa đến lợi nhuận của năm 2014.
Nợ xấu “ăn mòn” lợi nhuận
Hết quý I/2014, tỷ lệ nợ xấu của khối ngân hàng quốc doanh lớn vẫn được kiểm soát ở ngưỡng dưới 3%, nhưng nợ xấu mất vốn lại tăng mạnh. Đơn cử, nợ mất vốn của Vietcombank tăng 10%, tương ứng 3.058 tỷ đồng; nợ mất vốn của BIDV tăng 32% lên hơn 5.561 tỷ đồng…
Ở nhóm ngân hàng TMCP, nợ xấu gia tăng buộc ngân hàng phải tăng số trích lập dự phòng rủi ro, kéo giảm lợi nhuận ngân hàng. Đến cuối quý I/2014, tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng ACB đã tăng vọt lên 3,27%, lên hơn 3.504 tỷ đồng, riêng nợ có khả năng mất vốn chiếm tới 2.311 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế của ACB bị giảm tới 18,57% so với cùng kỳ, lên hơn 250 tỷ đồng.
Hai Ngân hàng DongAbank và PG bank có nợ xấu chạm ngưỡng 4%, riêng nợ mất vốn tăng mạnh lần lượt là 659 tỷ đồng và 318 tỷ đồng, kéo lợi nhuận sau thuế giảm còn 87 tỷ đồng và 44 tỷ đồng.
Cũng nằm trong nhóm nhà băng lớn, Ngân hàng Maritimebank chưa công bố kết quả kinh doanh quý I/2014, do đó, chưa rõ tỷ lệ nợ xấu và nợ mất vốn cụ thể. Tuy vậy, diễn biến nợ xấu liên tục tăng nhanh cả về tỷ lệ (từ 2,65% lên 2,71% cuối năm 2013) và con số tuyệt đối trong vòng 2 năm qua là điều đáng ngại.
Từ năm 2012 – 2013, Ngân hàng Maritimebank phải tăng gấp đôi số trích lập dự phòng rủi ro cho vay, dẫn tới lợi nhuận giảm xuống mức lần lượt là 248 tỷ đồng, 411 tỷ đồng. Dự kiến, năm 2014, lợi nhuận sẽ giảm chỉ còn 401 tỷ đồng.
Nhiều nhà băng khác như Seabank, Bắc Á, GPbank… chưa niêm yết, hạn chế công bố thông tin nên số liệu nợ xấu, nợ mất vốn, trích lập dự phòng rủi ro tăng – giảm ra sao hiện vẫn là ẩn số. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng phải tuân thủ hàng loạt quy định để đảm bảo khả năng thanh khoản, an toàn vốn, phân loại và trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu.
Âm thầm dọn nợ “có vấn đề”
Trên sổ sách, số liệu nợ xấu được kiểm soát ở mức “đẹp” dưới 3% do áp dụng nhiều biện pháp như: tăng tổng dư nợ, tích cực xử lý thu hồi nợ, bán nợ sang cho VAMC… Còn thực tế, ngân hàng đang rất chật vật khi kiện cáo doanh nghiệp, khách hàng ra tòa, để được phép thu giữ tài sản, bán thanh lý, thu hồi vốn.
Với những khoản nợ “sạch”, các ngân hàng có thể nhanh chóng xử lý thu nợ, hoặc bán bớt cho VAMC, giảm nhanh tỷ lệ trên sổ sách. Cuối năm 2013, HĐQT Vietcombank đã chọn giải pháp bán nợ tại 5 DN chuyên sản xuất phôi thép, tôn, ván dăm gỗ, kinh doanh kim khí, điện máy… để giảm nhanh dư nợ xấu, hạn chế thiệt hại.
Một trong những mối lo lắng hiện nay của Maritimebank là phải xử lý nhanh khối nợ xấu từ cho vay tàu biển, nhất là khoản nợ nhận lại từ ALC1 và ACL 2 (2 công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Agribank). Những khoản nợ vay của hai công ty này có tài sản thế chấp là tàu biển (tàu đóng dở hoặc tàu cũ).
Thực tế, Maritimebank đã thu hồi, phân loại tài sản, bán thanh lý bớt tàu để cắt lỗ. Dẫn chứng là tàu Hufa Star đã được bán thanh lý với giá sắt vụn, sau đó bị phá dỡ “chui” tại Hải Phòng (năm 2012). Trên thị trường mua bán tàu cũ, giá trị tài sản bán sắt vụn thường thấp hơn giá trị ghi sổ, do đó, việc bán tàu này khó có thể đảm bảo trả đầy đủ nợ vay cho ngân hàng.
Hiện nay, có 2 lựa chọn cho ngân hàng xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thứ nhất, bán nợ xấu cho VAMC, thu về Trái phiếu đặc biệt (tỷ lệ chiết khấu tới 70%) và thực hiện trích lập dự phòng rủi ro 20%/năm giá trị trái phiếu (trong 5 năm). Hết thời hạn 5 năm, ngân hàng không xử lý được nợ xấu thì sẽ phải trích đủ 100%, đồng nghĩa cũng bị mất số vốn tương ứng.
Thứ hai, ngân hàng phải chủ động xử lý những khoản nợ xấu phát sinh từ cho vay “có vấn đề” như: cho vay không có tài sản bảo đảm, giá trị tài sản không đủ đảm bảo nợ vay, “thổi” giá tài sản, lập hồ sơ “khống”, lừa đảo chiếm đoạt vốn vay…
Việc dọn nợ “có vấn đề” thực tế không hề dễ dàng, mà thường chịu chi phối bởi những quan hệ cá nhân, tranh chấp pháp lý, sai phạm của cán bộ ngân hàng… mà không ai muốn “vạch áo cho người xem lưng”.
Sẽ không thể tìm thấy trên báo cáo tài chính công khai về danh tính, số liệu cụ thể của những khoản nợ “có vấn đề”, cũng như tiến độ xử lý, dự phòng, mất vốn ra sao? Chỉ thấy rằng các vụ sai phạm cho vay, gây thiệt hại vốn ngân hàng với số dư nợ lên tới hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng liên tục bị phanh phui.
Hậu quả để lại là khối nợ xấu “khủng”, khó thu hồi như trường hợp Ngân hàng Agribank cho Công ty Lifepro Việt Nam vay gần 3.999 tỷ đồng, chi nhánh Vietinbank Đông Anh cho vay hơn 1.016 tỷ đồng…
Những cá nhân cho vay sai phạm đã bị khởi tố, truy cứu trách nhiệm hình sự, còn ngân hàng bị thiệt hại nặng vì không thu hồi đủ vốn, mất vốn, thất thoát tài sản bảo đảm…
Phần nợ mất vốn sẽ được bù đắp bằng nguồn dự phòng, dẫn tới kéo giảm lợi nhuận ngân hàng, mà cuối cùng chính các cổ đông sẽ chịu thiệt vì cổ tức teo tóp hoặc bằng 0%. Thiệt hại này, Hội đồng quản trị và các cấp phê duyệt khoản vay có chịu trách nhiệm?