Định giá
Kết quả kinh doanh của DHG khá ổn định, tình hình tài chính tốt, khả năng sinh lời cao nhưng khó có khả năng tạo đột biến. Do đó, DHG được xếp vào nhóm cổ phiếu phòng thủ, ít biến động theo xu hướng thị trường, thanh khoản thấp và không thích hợp cho các danh mục đầu tư ngắn hạn, lướt sóng.
DHG là doanh nghiệp đứng đầu ngành dược về quy mô và hiệu quả hoạt động, có tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận ở mức cao so với doanh nghiệp cùng ngành. Cùng với tiềm năng tăng trưởng đạt được khi các nhà máy mới đi vào hoạt động, DHG sẽ thích hợp cho các danh mục đầu tư giá trị.
Tăng trưởng
DHG duy trì tốc độ tăng trưởng doanh thu trung bình 17% quá các năm. Tính đến quý 3/2011, DHG đạt doanh thu 1.730 tỷ đồng, hoàn thành 77% kế hoach, và LNTT đạt 359,3 tỷ đồng bằng 94.5% kế hoạch. So với cùng kỳ năm trước, doanh thu tăng 26% trong khi LNST tăng 25,2%. Nguyên nhân là công ty đã thực hiện duy trì các trường trình khuyến mãi, bán hàng. Ngoài ra, giá sản phẩm tăng 2-3% và danh mục sản phẩm cơ cấu hiệu quả hơn đã góp phần làm tăng doanh thu và lợi nhuận.
Tỷ suất lãi gộp của công ty tiếp tục giảm dần và chỉ còn 47,7% (quý 3/2011) do chi phí đầu vào tăng lên. Nguyên nhân là do giá nguyên vật liệu nhập khẩu có sự biến động mạnh kể từ giữa năm 2010 đến nay. Chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí tài chính và bất ổn tỷ giá cũng tăng gây ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng LNST của công ty.
Tuy nhiên, so với bình quân ngành, các tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của DHG đều ở mức khá cao. Điều này đạt được nhờ công ty duy trì tỷ lệ doanh thu từ sản phẩm tự sản xuất cao và có sản lượng tiêu thụ lớn. Ngoài ra, các chỉ số ROA, ROE của DHG cũng thuộc nhóm cao nhất trong ngành.
Hiệu quả hoạt động
Vòng quay hàng tồn kho có xu hướng tăng trong giai đoạn 2008-2010 cho thấy công ty đã nỗ lực trong việc quản lý hàng tồn kho trong điều kiện giá nguyên liệu đầu vào có xu hướng tăng, dự trữ vật tư hợp lý hơn, cơ cấu sản xuất theo nhu cầu thị trường. Hàng tồn kho cũng tăng mạnh trong quý 1 & 2 của năm 2011 do công ty tăng mua nguyên vật liệu dự trữ
Vòng quay các khoản phải thu có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn 2008 – 2010 do các khoản mục phải thu có xu hướng gia tăng. Trước sức ép cạnh tranh và khó khăn của nền kinh tế, để đạt được mức tăng trưởng doanh thu, công ty phải duy trì chính sách bán hàng trả chậm đối với các đại lý và cửa hàng phân phối.
Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán đã có sự cải thiện khá mạnh trong giai đoạn 2008 – 2010 do công ty duy trì lượng tiền mặt cao. Tuy nhiên, trước tình hình khó khăn hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh lượng tiền mặt của công ty giảm mạnh do đầu tư vào dự án nhà máy mới khiến khả năng thanh toán suy giảm. Điều này phản ánh những khó khăn mà công ty đang phải đối mặt. Cơ cấu nguồn vốn
DHG luôn duy trì khoản tiền và tương đương tiền lớn nên hàng năm công ty luôn có khoản lãi từ tiền gửi khá lớn. Tuy nhiên, khoản mục này trong năm 2011 đã giảm mạnh do công ty duy trì đầu tư vào dự án nhà máy mới.
Khoản phải thu và HTK có xu hướng tăng dần tỷ trọng trong cấu trúc tài sản của công ty. Trong khi đó, nợ ngắn hạn có xu hướng giảm. Điều này cho thấy công ty đã tài trợ cho tài sản ngắn hạn bằng nguồn vốn dài hạn. Tuy nhiên, đây là đặc điểm chung của các công ty trong ngành.
Tỷ lệ TSCĐ/TTS của DHG khá ổn định và thấp hơn so với bình quân ngành do TSCĐ của DHG đã được khấu hao gần 50%. Ngoài ra, DHG cũng không sử dụng nhiều nợ vay nên các chỉ số nợ đều ở mức khá thấp, điều này sẽ mang lại lợi thế cho công ty trong bối cảnh lãi suất duy trì ở mức cao.