Đây là kết quả ấn tượng của Vietinbank nhưng cũng ngụ ý việc phân bổ vốn vào các lĩnh vực có rủi ro cao hơn để có mức lãi suất đầu ra cao.
Dưới đây là bài phân tích của StoxPlus về tình hình tài chính của Vietinbank sau khi Vietinbank công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2011 tới cộng đồng đầu tư:
Lợi nhuận sau thuế 6 tháng đầu năm 2011: tăng 80% so với cùng kỳ 2010. NIM chỉ riêng nửa năm 2011 đạt 3%. Chênh lệch lãi suất đầu ra – đầu vào (Credit Spead) đạt 4%.
Mặc dù dư nợ khách hàng chỉ tăng 12.4% và huy động tiền gửi giảm 6% nhưng với áp lực cạnh tranh của thị trường lãi suất cho vay và huy động đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao đã đẩy thu nhập và chi phí lãi của CTG đều tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, thu nhập từ lãi tăng từ 13.500 tỷ lên 25.731 tỷ đồng; chi phí lãi tăng từ 8.180 tỷ đồng lên 16.400 tỷ đồng. Dựa trên số dư nợ cho vay đầu kỳ và cuối kỳ, chúng tôi tính toán rằng chi phí huy động bình quân của CTG vào khoảng 12.6% (số annualised) trong khi đó lãi suất cho vay bình quân là 16.6% (số annualised). Mức chênh lệch giữa hai đầu lãi suất huy động và đi vày của Vietinbank vào khoảng 4% (Credit Spread).
Trong khi đó, thu nhập lãi thuần trong nửa đầu năm đạt 9.295 tỷ đồng tăng 73% so với 5.328 tỷ trong 6 tháng đầu năm ngoái. (Xem Bảng 1 phía sau)
Chúng tôi đã tính toán rằng Tỷ lệ sinh lời trên tài sản sinh lời [1] (Net Interest Margin %) của Vietinbank được cải thiện lớn từ 1.9% 6 tháng đầu năm 2010 lên 3% trong nửa đầu năm 2011. Mức lợi nhuận này cao hơn gấp đôi so với với bình quân của toàn bộ 43 ngân hàng của ngành ngân hàng thương mại Việt Nam (không tính các ngân hàng nước ngoài).
Trong khi dư nợ cho vay tăng trưởng 12.4% điều này chứng tỏ Vietinbank đã gia tăng lợi nhuận cho vay khách hàng từ việc tăng lãi suất đầu ra rất cao. Việc đẩy cao lãi suất cho vay vào các khu vực có lãi suất cao (để có được mức lợi nhuận tín dung cao) có thể tiềm ẩn rủi ro rằng tín dụng được phân bổ vào các dự án có yếu tố rủi ro cao hơn nhằm kỳ vọng mức lợi nhuận lớn hơn từ các khách hàng này.
Trên 84% thu nhập của Vietinbank đến từ hoạt động tín dụng:
Các khoản thu nhập khác đóng góp tỷ lệ thấp vào tổng thu nhập hoạt động của CTG trong 6 tháng đầu năm: Hoạt động dịch vụ (857 tỷ đồng), hoạt động kinh doanh ngoại hối (273 tỷ đồng) và tăng manh so với cùng kỳ); hoạt động mua bán chứng khoán đầu tư (10,2 tỷ đồng); riêng hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh lỗ 4,29 tỷ đồng; lợi nhuận khác (602 tỷ đồng).
Đây là mức tương đương với toàn ngành ngân hàng Việt Nam (85% – năm 2010). Điều đó chứng tỏ Vietinbank cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của một ngân hàng hiện tại: đa dạng hóa nguồn thu từ các hoạt động ngân hàng bán lẻ, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, nghiệp vụ thanh toán, v.v.
Chi phí hoạt động tăng 67% – chủ yếu do gia tăng chi phí tiền lương và nhân sự:
Chi phí hoạt động của CTG tăng mạnh trong kỳ lên mức 5.683 tỷ đồng chủ yếu do chi phí lương tăng cao và chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 4.000 tỷ đồng). Chúng tôi biết rằng đây nằm trong chiến lược tuyển mộ các nhân sự cao cấp và có kinh nghiệm trong các dự án phát triển Vietinbank, đặc biệt sau khi có sự tham gia của IFC. Một số dự án mà Vietinbank đang đẩy mạnh như Quản lý rủi ro, Quản lý vốn (Treasury), Tăng cường nhân sự điều hành và đặc biệt là phát triển mạng lưới ngân hàng bán lẻ và chi phí quảng bá, thương hiệu.
Bảng 1: Tóm tắt kết quả kinh doanh CTG nửa đầu năm 2011 so với 2010:
|
6T2011 |
6T2010 |
+/- |
% |
|
Tỷ VND |
Tỷ VND |
Tỷ VND |
% |
Thu nhập lãi và các khoảng tương tự |
25,731 |
13,507 |
12,224 |
90.5% |
Chi phí lãi và các khoản tương tự |
16,436 |
8,180 |
8,256 |
100.9% |
Thu nhập lãi thuần |
9,295 |
5,327 |
3,968 |
74.5% |
Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ |
658 |
688 |
(30) |
-4.4% |
Lãi từ kinh doanh ngoại hối và vàng |
273 |
24 |
249 |
1033.1% |
Lãi/(lỗ) từ chứng khoán kinh doanh |
(4) |
2 |
(6) |
-323.4% |
Thu nhập từ chứng khoán đầu tư |
10 |
2 |
8 |
409.5% |
Lãi từ hoạt động khác |
603 |
193 |
410 |
212.1% |
Thu nhập từ góp vốn cổ phần |
134 |
61 |
73 |
120.9% |
Tổng thu nhập hoạt động |
10,968 |
6,296 |
4,672 |
74.2% |
Tổng chi phí hoạt động |
5,683 |
3,413 |
2,270 |
66.5% |
Thu nhập thuần hoạt động kinh doanh |
5,285 |
2,884 |
2,402 |
83.3% |
Trừ: Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng |
1,372 |
706 |
666 |
94.3% |
Lợi nhuận trước thuế |
3,914 |
2,177 |
1,736 |
79.7% |
Lợi nhuận sau thuế |
2,990 |
1,652 |
1,338 |
81.0% |
Dự phòng tín dụng: chi phí dự phòng tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2010 trong khi dự nợ tăng 12%
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của CTG tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm trước từ mức 706 tỷ đồng lên mức 1.371 tỷ đồng.
Theo Thuyết minh báo cáo tài chính, trong 6 tháng đầu năm, CTG đã trích lập dự phòng 5.267 tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với con số 1.551 tỷ cùng kỳ năm ngoái và đã cao hơn con số trích lập dự phòng trong cả năm 2010 (3.575 tỷ đồng). CTG cũng đã hoàn nhập 3.890 tỷ đồng trong kỳ từ khác khoản đã trích lập trước đó.
Đến 30/6/2011: tổng giá trị cho vay khách hàng của CTG đạt 263 nghìn tỷ, giá trị khoản trích lập dự phòng cho vay cuối kỳ là 4.350 tỷ đồng.
|
6T2010 |
6T2012 |
Dự phòng đầu kỳ |
1,551 |
3,360 |
Trích lập trong kỳ |
1,137 |
5,267 |
Hoàn nhập trong kỳ |
(510) |
(3,890) |
Chi phí dự phòng |
627 |
1,377 |
Dự phòng cuối kỳ |
2,180 |
4,737 |
Chất lượng tín dụng: NPL tại 30.6.2011 ở mức 1.6% (30.6.2010: 0.64%)
Tổng dư nợ dưới chuẩn của CTG đã tăng gấp đôi từ 3.800 tỷ đầu năm lên mức 8.000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm nay. Trong đó chủ yếu là khoản nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) tăng thêm 2.000 tỷ đồng và nợ cần chú ý tăng thêm 1.600 tỷ đồng.
Tỷ lệ nợ xấu (NPL – Nonperforming loans ratio) của CTG do đó đã tăng mạnh từ mức 0,64% lên mức 1.56% tại thời điểm giữa năm 2011. Hiện tỷ lệ nợ xấu toàn ngành theo công bố của NHNN vào cuối năm 2010 khoảng 2,5%.
Bảng 2: Phân tích chất lượng tín dụng của CTG (theo VAS):
|
2010 |
6T2011 |
Nợ đủ tiêu chuẩn |
230.2 |
255.2 |
Nợ cần chú ý |
2.3 |
3.9 |
Nợ dưới tiêu chuẩn |
0.9 |
1.0 |
Nợ nghi ngờ |
0.4 |
0.9 |
Nợ có khả năng mất vốn |
0.2 |
2.2 |
Tổng |
234.0 |
263.2 |
NPL |
0.64% |
1.56% |
Có nhiều ý kiến và đánh giá của các tổ chức nước ngoài rằng NPL của một số ngân hàng Việt Nam trong đó có CTG có thể cao hơn nhiều nếu việc đánh giá chất lượng tín dụng được thực hiện theo chuẩn mức quốc tế. Chúng tôi cho rằng, điều nay sẽ phụ thuộc vào thực tế danh mục cho vay của Vietinbank. Ví dụ cho vay bất động sản, chứng khoán lớn đến đâu và thực tế hoạt động đảo nợ cho khách hàng được thực hiện với quy mô như thế nào. Thực tế nếu một khoản vay mặc dù thu lãi và gốc tốt nhưng được đảo nợ (rolling over) thì khoản vay đó và tất cả các khoản tín dụng liên quan (bao gồm cả ngoại bảng) cũng cần được phân loại là nợ dưới chuẩn theo chuẩn mực quốc tế.
Tăng trưởng tín dụng:
Dư nợ tín dụng của CTG đến 30/6/2011 đạt 263.267 tỷ đồng, tăng 12,4% so với con số 31/12/2010. So với tốc độ tăng trưởng dư nợ của toàn ngành chỉ đạt khoảng 7% trong 6 tháng đầu năm thì tốc độ tăng dư nợ của CTG cao hơn đáng kể.
Hơn 50% dư nợ của CTG tăng thêm (khoảng 17.000 tỷ đồng) tập trung vào các khoản cho vay ngắn hạn. Còn lại chủ yếu là cho vay dài hạn (hơn 10.000 tỷ đồng).
Mức độ an toàn vốn:
Hệ số an toàn vốn năm 2010 của CTG ở mức 8% theo công bố của ngân hàng. Đến tháng 6/2011, theo đã tăng lên trên 10% theo tính toán sơ bộ của StoxPlus do lượng vốn bổ sung từ việc phát hành cho IFC. Theo quy định mới của NHNN (Thông tư 13 quy định về về tỷ lệ bảo đảm an toàn của TCTD), hệ số CAR được quy định ở mức 9% trong khi thông lệ quốc tế hệ số này là 12% theo Basel III (Uỷ ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng)
________________
[1]Tỷ lệ sinh lời trên tài sản sinh lời = Thu nhập lãi thuần/ Tổng tài sản tinh lời. Tổng tài sản sinh lời = Cho vay khách hàng + Tiền gửi/cho vay các TCTD, bao gồm gửi tại NHNN + chứng khoán giữ đến ngày đáo hạn.
Bài phân tích này được thực hiện bởi Nguyễn Đức Tuấn và Nguyễn Quang Thuân. Anh Tuấn và Anh Thuân là chuyên viên phân tích độc lập của StoxPlus và Stox.vn. Anh Tuấn và Anh Thuân hiện không sở hữu cổ phiếu CTG. Mọi câu hỏi và góp ý xin gửi về research@stoxplus.com.
Thuân Nguyễn & Tuấn Nguyễn | StoxPlus Research I research@stoxplus.com