Mới đây, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đồng bằng Sông Cửu Long (MHBS) đã đưa ra bản báo cáo về ngành mía đường, cho rằng các doanh nghiệp ngành này sẽ tạo ra mức lợi nhuận đột biến trong quý còn lại của năm 2011. Trước đó, Công ty Chứng khoán Dầu khí (PSI) cũng cho rằng, thị trường đang đánh giá cổ phiếu ngành này thấp hơn thực tế.
Đặc biệt, mới hết 6 tháng đầu năm nhưng nhiều doanh nghiệp mía đường niêm yết đã vượt hoặc gần đạt kế hoạch cả năm. Đáng chú ý là Đường Kontum (KTS) với lợi nhuận trước thuế 6 tháng vượt 50% kế hoạch năm, Bourbon Tây Ninh (SBT) đạt 78% kế hoạch năm.
Lợi thế thời vụ
Giá đường trong nước đã giảm 15% từ tháng 11.2010 đến tháng 5.2011. Tuy nhiên, từ tháng 6, giá đường đã tăng lên mức đỉnh cũ là 19.000 đồng/kg. Nhờ đó, doanh thu quý II của KTS tăng 605% do giá bán tăng 21% so với cùng kỳ và sản lượng tăng 482%. Lợi nhuận trước thuế của SBT cũng tăng 167,8% nhờ giá bán tăng 12%.
Với nhu cầu thường tăng cao vào cuối năm để phục vụ dịp Tết Nguyên đán, giá đường được dự báo sẽ còn tăng. Hiện nay, sản xuất đường chỉ đủ đáp ứng 70% nhu cầu trong nước. Trong số 7 doanh nghiệp mía đường niêm yết trên cả 2 sàn, Mía đường Lam Sơn (LSS) và SBT là 2 công ty có sản lượng đường lớn nhất.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, kết quả kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp mía đường tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái và có sự phân hóa rõ rệt. Đáng chú ý là KTS và SBT với mức tăng trưởng lợi nhuận lần lượt 319% và 167%. Còn LSS và Mía đường Nhiệt điện Gia Lai (SEC) đạt mức tăng 24% và 46%. Riêng lợi nhuận sau thuế của Đường Ninh Hòa (NHS) và Biên Hòa (BHS) lại giảm do chi phí lãi vay cao.
Lợi thế của ngành mía đường còn đến từ sự hỗ trợ thuế nhập khẩu đường thô của Nhà nước. Theo đó, thuế nhập khẩu áp dụng từ ngày 15.4.2011 là 15% cho cả đường thô và đường tinh luyện (khu vực ASEAN là 5%). Mức thuế này thấp hơn so với cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới là 25% đối với đường thô và 60% đối với đường tinh luyện. Với mức chi phí nhập khẩu trên, doanh nghiệp ngành đường hiện có nhiều lợi thế trong giá bán.
Theo MHBS, cổ phiếu ngành mía đường đang được giao dịch với mức P/E (giá/thu nhập mỗi cổ phiếu) khá thấp so với bình quân của thị trường. P/E bình quân ngành tháng 10.2011 đạt 3,3 lần, thấp hơn rất nhiều so với P/E bình quân của VN-Index, HNX-Index trong cùng thời điểm (7,9 lần và 6,2 lần). Chỉ số EPS (thu nhập mỗi cổ phiếu) của các doanh nghiệp ngành này cũng tương đối cao, thấp nhất là SBT với 3.700 đồng/cổ phiếu và cao nhất là KTS với 14.600 đồng/cổ phiếu.
Nhìn chung, hầu hết các công ty kinh doanh mía đường đều có khả năng sinh lời tốt. Trong đó, KTS với ROA (lợi nhuận/tài sản) và ROE (lợi nhuận/vốn) năm 2010 lần lượt là 30,4% và 49%, NHS với ROA và ROE lần lượt là 21% và 37,6%, BHS là 14,5% và 29,4%. Tỉ lệ chi trả cổ tức của các doanh nghiệp này cũng khá cao, trung bình từ 20-60%. Trong năm 2011, KTS cam kết sẽ trả 30% cổ tức bằng tiền mặt và 30% bằng cổ phiếu; SEC cũng cho biết sẽ trả cổ tức với tỉ lệ 40% bằng tiền mặt.
Rủi ro nguồn nguyên liệu
Thách thức của ngành mía đường luôn là sự ổn định nguồn nguyên liệu. Thực tế cho thấy, diện tích trồng mía của Việt Nam đã suy giảm liên tiếp trong 3 năm gần đây do bị cạnh tranh từ diện tích trồng cao su, tiêu và cà phê. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp chưa có vùng trồng mía riêng mà phải thu mua trong dân. Hiện nay, do thiếu nguyên liệu, đa số nhà máy mía đường chỉ hoạt động trong niên vụ từ tháng 11 đến tháng 5. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực tới biên lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vì thế, SBT đang triển khai đầu tư phát triển vùng nguyên liệu mía ở Tây Ninh, Bình Phước… SEC cũng đang nghiên cứu trồng thử nghiệm vùng diện tích mía nguyên liệu 7.000 ha tại Gia Lai.
Một điều nữa là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp mía đường vẫn còn thấp. Do không đầu tư được hệ thống phân phối nên các doanh nghiệp sản xuất đường chỉ bán sản phẩm thông qua các đại lý. Các nhà máy mía đường hiện nay đều có công nghệ sản xuất khá lạc hậu và năng suất thấp (trừ SBT). Đó là lý do LSS đang lên kế hoạch phát triển kinh doanh với các dự án như xây dựng hệ thống phân phối bán lẻ đường, dự án nhiên liệu sinh học với đối tác Nga và PV Oil.
Nhìn chung, các doanh nghiệp mía đường có tỉ lệ nợ vay thấp. Riêng đối với NHS và BHS, do có nợ vay cao nên lợi nhuận bị ảnh hưởng. Tính đến hết tháng 6.2011, tỉ lệ nợ vay/vốn chủ sở hữu của 2 doanh nghiệp này lần lượt là 123% và 125%, khiến lợi nhuận giảm tương ứng 48% và 16% so với cùng kỳ năm ngoái.
Điều khiến nhà đầu tư e ngại nhất đối với nhóm cổ phiếu này là thanh khoản rất thấp. Phần lớn các cổ phiếu mía đường đều có lượng lưu hành thấp, tỉ lệ sở hữu của cổ đông lớn khá cao (trung bình khoảng 70%).
Tổng lượng cổ phiếu đang lưu hành của KTS là 3 triệu, trong đó Công ty Mua Bán nợ và Tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) nắm 68,6% vốn và Công ty Kim Hà Việt nắm 15% vốn. Vì thế, những tháng gần đây, cổ phiếu này hầu như chỉ được giao dịch 1 lần mỗi tháng và mỗi lần chỉ có đúng 100 đơn vị được chuyển nhượng.