Nếu duy trì đà tăng trưởng mạnh trong những quý kế tiếp, ngành dệt may sẽ bị Hoa Kỳ đưa vào diện theo dõi đặc biệt và áp dụng mức thuế cao hơn. Đây chính là nguyên nhân khiến cho nhóm CP dệt may không đủ lực bứt phá.
Xuất khẩu tăng trưởng mạnh
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), 2017 là năm thứ 4 liên tiếp nhu cầu dệt may toàn cầu hầu như không đổi với tổng nhu cầu đạt 674 tỷ USD (giảm nhẹ 0,85% so với năm 2016).
Thực tế năm 2017 diễn ra căng thẳng địa chính trị, chính sách kinh tế theo chủ nghĩa bảo hộ, và việc đổ vỡ của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tạo ra sự bất ổn cho nền kinh tế toàn cầu và thương mại nói chung, ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may tại các thị trường lớn.
Song trong bối cảnh đó, dệt may Việt Nam vẫn đạt kết quả đáng kể về tăng trưởng xuất khẩu so với các quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu, như Trung Quốc, Ấn Độ và Bangladesh. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu năm 2017 đạt 31,2 tỷ USD (tăng 10,81%), trong đó các thị trường lớn của ngành dệt may Việt Nam là Hoa Kỳ (12,5 tỷ USD), EU (9 tỷ USD), Nhật Bản (3,3 tỷ USD) và Hàn Quốc (3 tỷ USD).
Đáng chú ý là thị trường Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm vừa qua lên đến 26% tương đương 3,3 tỷ USD.
Một tín hiệu khả quan khác đối với ngành dệt may là đã có sự chuyển dịch về số lượng đơn đặt hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Có thể thấy được hiện tượng này qua tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc đã giảm gần bằng mức tăng xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2017 (tương đương 3 tỷ USD).
Nguyên nhân do Việt Nam có vị trí sát với Trung Quốc, chi phí nhân công cạnh tranh và mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) là lợi thế cạnh tranh giúp Việt Nam trở thành điểm đến Trung Quốc+1.
Chẳng hạn, Hải Phòng của Việt Nam chỉ cách phân xưởng sản xuất của Trung Quốc là Thâm Quyến khoảng 865 km. Ngoài ra, Việt Nam có khoảng cách từ các nhà máy sản xuất đến cảng biển gần hơn, giúp giảm chi phí logistics và vận tải so với Trung Quốc. Bên cạnh đó, việc Chính phủ Trung Quốc cũng đang từng bước chuyển trọng tâm kinh tế vĩ mô từ hàng dệt may sang các ngành công nghiệp khác như công nghệ.
Ngoài ra, vốn FDI vào Việt Nam dự kiến sẽ tăng để nắm bắt cơ hội nhờ kỳ vọng tăng trưởng từ Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Dù cả 2 thỏa thuận chưa có hiệu lực trước nửa cuối năm 2019, song khi CPTPP có hiệu lực (dự kiến vào năm 2019), ngành dệt may của Việt Nam hy vọng sẽ được hưởng lợi nhờ tăng doanh thu xuất khẩu, đặc biệt là được xuất khẩu đến Canada, Mexico và Australia (3 thành viên CPTPP mà Việt Nam chưa có thỏa thuận FTA).
Với giá trị của 3 thị trường này khoảng 10-13 tỷ USD, thị phần của Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu là 300-500 triệu USD. Theo dự báo, Việt Nam có thể tăng giá trị xuất khẩu lên 50 triệu USD đến mỗi quốc gia trong 3 quốc gia thành viên này vào năm đầu tiên khi CPTPP có hiệu lực.
Nỗi lo cạnh tranh
Dù ghi nhận được kết quả ấn tượng trong các hoạt động xuất khẩu, nhưng so với các đối thủ cạnh tranh, thời gian và chi phí liên quan đến thủ tục hải quan tại Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước khác.
Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nhân công của ngành. Tại ĐHCĐ thường niên 2018 của CTCP Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VGT) được tổ chức cuối tháng 6 vừa qua, lãnh đạo của tập đoàn này thừa nhận ngành dệt may đã đầu tư lượng vốn lớn vào máy móc và thiết bị để tăng tính tự động hóa trong quy trình sản xuất chung, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào nhân công. Vì vậy, vẫn còn một chặng đường dài để Việt Nam có thể bắt kịp các chỉ số sản suất của các nước trong khu vực. Ngày càng nhiều đơn hàng với số lượng nhỏ hơn và thời gian giao hàng ngắn hơn, là vấn đề nan giải đối với ngành may mặc và chuỗi cung ứng của ngành.
Theo phân tích của CTCK Sài Gòn (SSI), cạnh tranh vẫn còn căng thẳng khi các nước xuất khẩu dệt may khác đang hành động để duy trì và tăng thị phần bằng các chính sách về bảo hiểm xã hội, thuế, để hỗ trợ ngành của họ. Thí dụ, Bangladesh đã giảm thuế nhập khẩu vải lanh và sợi spandex từ 10% xuống còn 5%, và cắt giảm thuế nhập khẩu đối với hóa chất nhuộm từ 25% xuống còn 15%; Pakistan đã áp dụng chế độ miễn thuế đối với nguyên liệu thô và năng lượng cho xuất khẩu dệt may.
Ngành may mặc của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đối với thiết bị máy móc và nguyên liệu thô, không chỉ làm giảm biên lợi nhuận mà còn bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá. Đơn cử từ trường hợp VGT. Dù doanh thu dự kiến hoàn thành kế hoạch, nhưng lợi nhuận vẫn chịu ảnh hưởng từ tỷ giá giảm và biến động chi phí đầu vào do áp lực tỷ giá. Chẳng hạn, việc giá USD tăng 1% so với VNĐ sẽ khiến chi phí trả các khoản vay USD tăng do lãi suất liên ngân hàng London (LIBOR) tăng từ 1,5% vào cuối năm 2017, lên 2,8% trong năm nay.
Theo nhận định của VITAS, tổng nhu cầu dệt may toàn cầu trong năm 2018 dự kiến sẽ tăng trưởng khiêm tốn, thậm chí không thay đổi so với năm 2017. Trong khi đó, mục tiêu giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2018 vẫn còn khá tham vọng, dự kiến đạt 34 tỷ USD (tăng 10%). Trong 5 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam ước đạt 13,3 tỷ USD (tăng 16,48% và đạt 38% kế hoạch đề ra). Thế nhưng, tham vọng của ngành đang đứng trước nguy cơ thất bại do tác động từ những bất ổn liên quan đến cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Doanh nghiệp lo ngại, CP mất lực
Trước khi xảy ra những căng thẳng xung quanh cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhiều doanh nghiệp dệt may đã xây dựng kế hoạch đầu tư nhằm đón đầu cơ hội nhờ CPTPP mang lại. Đơn cử, CTCP Đầu tư và Thương mại TNG (TNG) chủ động mở rộng sản xuất kinh doanh bằng việc đầu tư mở rộng các nhà máy sản xuất hàng may mặc.
Trong chiến lược phát triển 2017 -2020, TNG sẽ đầu tư xây dựng mới các nhà máy như: TNG Phú Lương, TNG Võ Nhai với tổng số vốn lên tới 1.460 tỷ đồng. Tuy nhiên, quyết định đầu tư này bất ngờ gặp phải lực cản từ những biến động thời sự diễn ra trong những ngày gần đây. Theo nhận định của giới phân tích, nếu tăng trưởng xuất khẩu hàng may mặc tăng đột biến khoảng 20-30% trong các quý tới, Việt Nam có thể bị vào diện theo dõi đặc biệt từ Hoa Kỳ và áp dụng mức thuế cao hơn.
Đây có thể là nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp không thể “bung sức” để đón đầu cơ hội dịch chuyển đơn hàng từ Trung Quốc trong thời gian tới. Thực tế, giá CP dệt may sau đợt tăng nhờ CPTPP đã sụt giảm khá mạnh trong thời gian gần đây dù kết quả kinh doanh được cải thiện đáng kể. Đơn cử giá CP TNG thời điểm cuối năm 2017 đạt 14.000 đồng/CP, nhưng thời điểm hiện tại chỉ quanh mốc 10.000 đồng/CP.
Tương tự, VGT bất ngờ giảm xuống dưới mệnh giá (10.000 đồng/CP trong các phiên giao dịch gần đây) dù tình hình kinh doanh hết sức khả quan. Cụ thể, một số dự án đã chính thức đi vào hoạt động từ cuối năm 2016 như nhà máy sợi Nam Định, nhà máy sợi Phú Cường đã đi vào ổn định sản xuất kinh doanh và từ quý I-2018 bắt đầu có lãi.
Một số đơn vị trong tập đoàn trong quý I đạt lãi tăng so với cùng kỳ năm trước như TCTCP Dệt may Hà Nội (tăng 28 tỷ đồng), TCTCP Dệt may Hòa Thọ (tăng 13,3 tỷ đồng) và Tổng công ty Dệt may Miền Nam (giảm lỗ 19 tỷ đồng). Thậm chí, mã CP dệt may được nhận định là doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn “từ sợi trở đi” của CPTPP là CTCP Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành Công (TCM), cũng sụt giảm từ mức xấp xỉ 30.000 đồng/CP thời điểm đầu năm 2018 xuống chỉ còn hơn 17.000 đồng/CP.