Vào những năm 80 của thế kỷ trước, các nước công nghiệp mới (NICs) nổi lên như “những con rồng châu Á”, mà Hàn Quốc là điển hình của hiện tượng này.
Sau gần một thập kỷ khắc phục hậu quả chiến tranh, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu hồi phục và cất cánh trong những năm 1962-1971. Nhưng phải từ thập kỷ tiếp theo, Hàn Quốc mới thực sự bứt lên với chính sách đẩy mạnh đầu tư, phát triển công nghiệp. Chính sách tự do hóa nền kinh tế, xây dựng quy hoạch phát triển, hỗ trợ đầu tư có chọn lọc doanh nghiệp lớn làm đầu tàu cho phát triển đã phát huy hiệu quả tích cực.
Kết quả là, tốc độ tăng trưởng của Hàn Quốc trong thập kỷ 70, 80 đã đạt 8%/năm. Ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính khu vực cuối thập kỷ 90, đất nước này vẫn giữ được đà tăng trưởng.
Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến đầu tư cho vốn con người. Khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là động lực và chìa khóa của sự phát triển.
Mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc được coi là thành công, nhưng cũng không tránh khỏi một số hạn chế.
Việc duy trì đầu tư cao, kéo dài dẫn đến nguy cơ nợ nần. Chính sách quá tập trung vào các tổ hợp tập đoàn kinh tế (chaebol), mặc dù phát huy hiệu quả tích cực cho tăng trưởng, nhưng cũng là mảnh đất màu mỡ cho độc quyền, tham nhũng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những giai đoạn nhất định tạo ra sự cách biệt nông thôn – thành thị, nếu thiếu sự quan tâm đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Mất cân đối ở một số chỉ tiêu vĩ mô trong giai đoạn khủng hoảng cũng là vấn đề mà Chính phủ Hàn Quốc đã phải giải quyết.
Năm 2011, Chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp lớn, chú trọng phát triển kinh tế tri thức và đặc biệt là lựa chọn 17 ngành công nghiệp làm động lực tăng trưởng cho tương lai.
Trung Quốc: tập trung cho các cực phát triển
Trung Quốc là đất nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam khi chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Với chiến lược cải cách, mở cửa được thông qua vào cuối năm 1978, Trung Quốc bước vào giai đoạn phát triển cao và ổn định. Trong 30 năm, Trung Quốc đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao ấn tượng với mức tăng bình quân 9,8%/năm. Quá trình “đuổi, kịp, vượt” đã biến Trung Quốc thành “công xưởng của thế giới”, đưa nền kinh tế Trung Quốc từ hàng thứ 19 vào năm 1978 lên quy mô thuộc tốp 3 thế giới hiện nay.
Trong quá trình phát triển nhanh, Trung Quốc cũng gặp phải những vấn đề của tăng trưởng nóng. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP cao và kéo dài trong nhiều năm là nguyên nhân của lạm phát cao, mức tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng lớn, tài nguyên bị khai thác, môi trường bị hủy hoại.
Để khắc phục, ngay từ năm 1996, khống chế tăng trưởng quá nóng được đặt ra. Yêu cầu về chia sẻ lợi ích tăng trưởng cho đại bộ phận người dân và bảo vệ môi trường càng trở nên cấp thiết để phát triển bền vững. Chương trình xây dựng nông thôn mới, được thông qua năm 2006, với quan điểm tập trung nguồn lực cho nông thôn; đồng thời, phương châm xây dựng xã hội hài hòa đã được thể hiện rõ trong kế hoạch 5 năm 2006-2010, là những điều chỉnh thích hợp trong chính sách phát triển của Trung Quốc.
Biện pháp sốc từ Liên Xô (cũ) và Đông Âu
Đối với các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường khó khăn hơn nhiều.
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, nhưng mô hình phát triển dựa nhiều vào gia tăng vốn và lao động, cũng như sự cào bằng trong thu nhập, đã kìm hãm sự năng động, cản trở tiến bộ của khoa học – công nghệ.
Công cuộc cải tổ vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước vì nhiều lý do đã không thành công, khiến Liên Xô tan rã, các nước Đông Âu từ chỗ là một hệ thống gắn bó về kinh tế – chính trị, phải tự lựa chọn con đường phát triển của mình. Liệu pháp sốc “500 ngày chuyển sang kinh tế thị trường” đã được lựa chọn trong bối cảnh đầy thử thách.
Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, từ 1991-2000, hầu hết các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu đều rơi vào suy thoái, với mức tăng trưởng âm. Tuy nhiên, liều thuốc đắng này đã phát huy tác dụng, trong 10 năm tiếp theo (2001-2010), tăng trưởng của các nước này có bước tiến vượt bậc, phần lớn ở mức 5%/năm trở lên, thể chế kinh tế đã chuyển được sang kinh tế thị trường.
Ngoài Liên bang Nga là nước vốn có tiềm lực kinh tế mạnh, điển hình của việc chuyển đổi thành công là Ba Lan và Hungary. Đây là những nước đi đầu trong mở cửa, cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh quá trình tư nhân hóa và hội nhập quốc tế. Hàng loạt biện pháp liên quan đến cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, hệ thống thuế, kiểm soát ngân sách đã được thực hiện.
Đối với Ba Lan, chính sách tăng cường trợ giúp cho nông nghiệp đã nhân lên lợi thế của đất nước. Đồng thời, quá trình tư nhân hóa mạnh mẽ và môi trường pháp lý thuận lợi đã góp phần đưa Ba Lan trở thành một nước công nghiệp và trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế vào tháng 7/1996.
Bài học cho Việt Nam
Thứ nhất, các nước chuyển đổi thành công đều nhận thức đúng về sự cần thiết chuyển đổi và có cách tiếp cận hợp lý về cải cách và mở cửa, đặc biệt là vai trò của Chính phủ trong các quyết sách này.
Với Trung Quốc, đó là việc chấp nhận thị trường, coi CNXH không đối lập với thị trường. Khung khổ thể chế thị trường được thiết lập và việc thí điểm, tổng kết, nhân rộng mô hình các đặc khu kinh tế là kinh nghiệm quý mà Việt Nam có thể học tập.
Từ một khía cạnh khác, mặc dù không lựa chọn liệu pháp sốc như các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu, nhưng việc chuyển đổi thành công sang cơ chế kinh tế thị trường của các nước này cũng đặt ra câu hỏi: phải chăng Việt Nam có thể rút ngắn quá trình chuyển đổi để thực sự tạo động lực cho phát triển.
Thứ hai, áp dụng chính sách phát triển có lựa chọn có vai trò quan trọng giúp các nước vượt qua khó khăn và phát triển lên mức cao hơn.
Ở Hàn Quốc, đó là chính sách tập trung phát triển các tổ hợp công nghiệp, các ngành đầu tàu, mũi nhọn, kỹ thuật cao. Ở Trung Quốc, là chiến lược đối với các cực phát triển, áp dụng mô hình đặc khu kinh tế.
Tuy nhiên, rút kinh nghiệm từ việc tập trung cho chaebol của Hàn Quốc, đối với tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam, cơ chế xác lập đại diện chủ sở hữu, năng lực quản trị, kiểm tra, giám sát cần được đặc biệt lưu ý để tránh độc quyền, tham nhũng, lãng phí, để tập đoàn thực hiện được vai trò chủ đạo.
Thứ ba, một số nước sau giai đoạn tăng trưởng cao đều có nguy cơ suy thoái và việc điều chỉnh chính sách để đầu tư nhiều hơn vào con người, phát triển khoa học – công nghệ, đầu tư tăng thêm cho bảo vệ môi trường, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các khu vực là những điều kiện cần cho phát triển bền vững.
Thứ tư, các nước thành công trong hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài đều chú trọng vấn đề tận dụng cơ hội này để nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển giao công nghệ và kỹ năng của người lao động. Môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng hạ tầng phần cứng và phần mềm, đặc biệt là nâng cao khả năng hấp thụ vốn và tiếp thu công nghệ là những bài học quý giá mà Việt Nam cần học tập.
Thứ năm, tăng trưởng cần đi đôi với giải quyết các vấn đề về xã hội và môi trường. Sự thành công của Hàn Quốc trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với cải thiện các chỉ số xã hội là điều Việt Nam cần học tập. Cũng phải nhắc tới bài học không thành công của Brazil khi quá coi trọng tăng trưởng, cho rằng, cứ có tăng trưởng là có phát triển và hậu quả là phải hứng chịu giai đoạn suy thoái kéo dài.
Thứ sáu, nâng cao năng lực quản trị nhà nước, quản trị doanh nghiệp là điều kiện cần để chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng. Ở đâu Chính phủ kiên quyết thực hiện cải cách hành chính, tinh giản bộ máy và nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật, bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, thì ở đó, công cuộc cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế mới có hiệu quả.