- 1 năm sau khi CPTPP có hiệu lực, tỷ lệ doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế quan chưa cao ở một số mặt hàng, thị trường, ngoại trừ những ngành Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu như thủy sản, dệt may, da giày…
Tại hội thảo thực hiện hiệu quả Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trong tiến trình hội nhập quốc tế, do Viện Nghiên cứu Kinh tế quản lý Trung ương (CIEM) thực hiện sáng 19/2, ông Nguyễn Anh Dương, Trường ban nghiên cứu tổng hợp CIEM cho biết khoảng 40% doanh nghiệp tận dụng được ưu đãi thuế quan từ các FTA mà Việt Nam đã tham gia.
Trong đó, tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ CPTPP ở một số thị trường chưa cao, trừ Mexico và Canada. Những mặt hàng có tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan cao là những ngành truyền thống của Việt Nam như thủy sản, dệt may, da giày, chè, cà phê…
Cùng với đó, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn hiệp định đạt gần 35 USD, tăng 8,3% và kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 30 tỷ USD, tăng 1%. Trong khi đó, mức độ quan tâm của doanh nghiệp Việt Nam vào những thị trường mới chưa có nhiều đột biến, ví dụ như thị trường Peru.
Ông Nguyễn Anh Dương cũng cho biết, dù đã được viết thành văn bản nhưng cách hiểu về chương thương mại và phát triển bền vững giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối tác trong CPTPP có sự khác biệt. Điều này ảnh hưởng đến xuất khẩu không chỉ trong CPTPP mà ngay cả EVFTA sau này. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ hiểu về thuế quan và cắt giảm thuế quan chứ chưa hiểu biết đầy đủ và có hệ thống về các khía cạnh khác như quy tắc xuất xứ, công nghệ…
Minh chứng, thị trường Australia đã dừng xuất khẩu trâu bò sống sang Việt Nam do quy trình giết mổ chưa đảm bảo tính nhân đạo theo tiêu chuẩn của thị trường này.
Ngoài ra, báo cáo cũng cho thấy so với các thành viên trong CPTPP, chất lượng thể chế kinh tế của Việt Nam có một khoảng cách nhất định so với các đối tác khác, ở cả xếp hạng môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số quản trị hay năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Tính khoảng cách pháp lý bằng cách rà soát các quy định của từng đối tác so với cam kết của hiệp định, nếu có sự khác biệt quy định phi thuế quan tính là 1 điểm, nếu không là 0, từ đó, đưa ra con số trung bình của mỗi nền kinh tế. Dựa trên cách tính này Việt Nam vẫn có khoảng cách pháp lý, đặc biệt quy định về phi thuế quan so với các đối tác. Đáng nói, mức độ hài hòa hóa của Việt Nam chỉ cao hơn Australia nhưng lại kém hơn so với Brunei, Malaysia, Singapore.
Bình luận về kết quả báo cáo, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO cho rằng, cơ hội lớn nhất của CPTPP thực chất là thể chế, bởi 7/10 đối tác thành viên Việt Nam đã có FTA và được thực thi từ lâu.
Cũng theo bà Trang, CPTPP là tiêu chuẩn, sức ép và “cái cớ” để Việt Nam thực hiện cải cách thể chế tốt hơn, đặc biệt trong những lĩnh vực như lao động, môi trường, phát triển bền vững hay doanh nghiệp nhà nước. Điều này được thể hiện ở 4 khía cạnh.
Trước tiên, những cam kết trong CPTPP rất gần với những nghị quyết về cải cách thể chế, chính sách mà Việt Nam đang triển khai để tiệm cận với những chuẩn mực cao hơn của khu vực, thế giới. Trường hợp Việt Nam tự thực hiện cải cách thể chế có thể mất 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa, nhưng CPTPP tạo ra sức ép về mặt thời gian và phương thức để những cải cách này thực hiện sớm và có hiệu quả.
Cùng với đó, CPTPP cũng tạo ra những điều kiện để Việt Nam cải cách thể chế thông qua hỗ trợ kỹ thuật từ nhiều đối tác cho những nội dung cải cách khó.
Cuối cùng, CPTPP là động lực cho Việt Nam cải cách, xuất phát từ lợi ích kinh tế mà hiệp định mang lại (mặc dù có thể ít hơn so với cải cách thể chế). Bởi yêu cầu cải cách về thể chế của CPTPP rất gần với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), khi cộng hưởng những cơ hội kinh tế từ CPTPP và EVFTA sẽ tạo ra tác động kinh tế cực kỳ lớn, để Việt Nam đón đầu cơ hội hoặc hiện thực hóa cơ hội kinh tế. Trong đó, có cải thiện chất lượng hàng hóa để tận dụng ưu đãi thuế quan, bao gồm thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ, tự chủ nguồn nguyên vật liệu sản xuất và cơ hội đầu tư.
Ngọc Hà