Cứ bán sẽ có nhiều NĐT quan tâm
Tính đến nay, sau gần một năm kể từ khi được thành lập, VAMC đã mua khoảng 46 nghìn tỷ đồng nợ gốc và tổng giá trị trái phiếu đặc biệt phát hành gần 38 nghìn tỷ đồng. Nhìn lại các thông tin trên báo chí thời gian qua, trong khi tin tức về “chiều mua vào” xuất hiện khá nhiều và cập nhật thì ở chiều ngược lại (bán nợ xấu ra) hầu như mới chỉ đề cập đến định hướng là sẽ bán. Điều này cũng dễ hiểu bởi thực tế trong khi thị trường, các cơ chế cho mua bán nợ xấu chưa có thì hành lang pháp lý liên quan cũng chưa được điều chỉnh cho phù hợp, sát với thực tiễn hiện nay.
Theo nhìn nhận chung của các chuyên gia, trong bối cảnh năng lực tài chính của VAMC hiện nay có hạn, nếu chiều mua vào cứ tăng nhanh mà đầu ra bế tắc sẽ khiến áp lực xử lý nợ xấu với tổ chức này ngày càng tăng lên.
Theo ông Phạm Hồng Hải, Phó Tổng giám đốc HSBC Việt Nam, việc bán được nợ là rất cần thiết, bởi nếu nợ xấu mua về không xử lý được, 5 năm sau quay trở lại “túi” của các ngân hàng thì sẽ không giải quyết được vấn đề. Trong khi nếu bán ra thành công sẽ tạo được các nguồn vốn mới cho VAMC và ngân hàng, tất nhiên về mặt giá trị thì phải chấp nhận theo giá thị trường – tức có thể thấp hơn rất nhiều so với giá trị mua vào lúc đầu.
Một câu hỏi đặt ra là, nếu bán nợ xấu lúc này thì có thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư (NĐT) cả trong và ngoài nước hay không? Các chuyên gia đều cho rằng, nếu chỉ xét riêng về mặt thị trường thì câu trả lời chắc chắn là có. “Các NĐT luôn tìm kiếm cơ hội. Nhưng khi đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào các khoản nợ xấu thì NĐT sẽ kỳ vọng mua được với giá của các tài sản đó giảm xuống rất nhiều. Vấn đề là VAMC và các ngân hàng, DN liên quan có chấp nhận điều đó hay không? Nếu có, cơ chế để chấp nhận như thế nào cần được đặt ra” – ông Phạm Hồng Hải đặt vấn đề. Quan điểm này cũng được các chuyên gia tham vấn ý kiến đồng thuận và đó chính là vấn đề “giá thị trường” cần được đặt ra.
Bên cạnh đó, với các NĐT nước ngoài, họ còn gặp rất nhiều vướng mắc về hành lang pháp lý nếu muốn đầu tư, đặc biệt liên quan đến vấn đề sở hữu và tỷ lệ sở hữu các khoản nợ có thể được mua, cơ chế mua trực tiếp bằng ngoại tệ hay phải chuyển đổi qua nội tệ… Các vấn đề quan trọng khác cũng rất cần tháo gỡ như vấn đề xử lý tài sản đảm bảo (TSĐB)…; và điều quan trọng hơn chính là việc Việt Nam chưa từng có một thị trường mua bán nợ xấu thực sự. Bởi vậy, theo TS. Cấn Văn Lực – chuyên gia tài chính ngân hàng, việc tạo lập ngay thị trường mua bán nợ và cơ chế cho thị trường này hoạt động song song với việc hoàn thiện cơ chế xử lý TSĐB cần đặt ra hiện nay.
Cùng với đó, để khởi động được thị trường này, các chuyên gia cũng đề xuất cần nghiên cứu đưa ra làm thí điểm với một số món nợ xấu đã mua. “Cần làm thí điểm, thậm chí chấp nhận bán ở mức giá không được như kỳ vọng để từ đó tạo ra sự hấp dẫn cho NĐT, đồng thời qua đó tìm ra các phương thức phù hợp nhất” – ông Hải nói.
Coi đây là quá trình “dò đá qua sông”, TS. Alan Phạm, Kinh tế trưởng Tập đoàn VinaCapital cũng ủng hộ việc thí điểm này để từ đó điều chỉnh, tháo gỡ dần. Điều quan trọng là, khi những khoản nợ xấu đầu tiên được bán ra sẽ cho thấy định hướng của VAMC, từ đó tạo niềm tin cho thị trường. Thị trường lúc đó sẽ thấy VAMC thực sự là tổ chức, là công cụ để xử lý nợ xấu chứ không chỉ đơn thuần là nơi “tạm trữ” nợ xấu.
Chứng khoán hóa – một giải pháp cần tính đến
Chứng khoán hóa (CKH) nợ xấu là một trong những biện pháp đã được nhiều nước áp dụng thành công trong quá trình xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, đây cũng là biện pháp hoàn toàn mới ở thị trường Việt Nam. Theo ông Hải, lợi ích của CKH là tính thanh khoản, theo đó NĐT có thể mua bán trên thị trường, đồng thời có thể đa dạng hóa rủi ro được. Do đó, nếu biện pháp này được nghiên cứu triển khai cũng có thể thu hút tốt các NĐT.
Đồng tình và bổ sung thêm, theo TS. Lực, điều kiện để tiến hành CKH được là phải có thị trường mua bán nợ xấu. Cùng với đó phải có hành lang pháp lý cho CKH. Cụ thể là phải có riêng một quyết định về CKH và cho phép thành lập một tổ chức trung gian để thực hiện việc này. Tổ chức này có thể là thuộc VAMC, hoặc có thể là công ty ủy thác, thậm chí là công ty cổ phần hay quỹ đầu tư – được hiểu là một công ty kinh doanh nợ đặc biệt – sẽ chuyên về mua bán nợ xấu từ VAMC, sau đó phát hành trái phiếu ra bên ngoài và lấy chính giá trị mua nợ xấu thực đó làm TSĐB.
Bên cạnh đó, phải có một tổ chức định giá, xếp hạng tín nhiệm, vì khi phát hành trái phiếu ra bên ngoài sẽ cần một tổ chức đứng ra xếp hạng tín nhiệm đối với các khoản nợ xấu đó với tư cách là TSĐB. Ngoài ra, cần sự tham gia của một đối tượng nữa là tổ chức bảo lãnh phát hành. Trường hợp bán trái phiếu ra bên ngoài không hết thì tổ chức này sẽ “bao tiêu”. Đồng thời, cũng cần có một tổ chức, có thể là ngân hàng, giám sát, bảo vệ quyền lợi của NĐT, để đảm bảo là công ty mua bán nợ xấu thực hiện đúng các mục tiêu đặt ra.
Để đảm bảo biện pháp CKH thành công thì lúc đầu cũng có thể làm thí điểm, sau đó nhân rộng ra. TS. Lực cho rằng, khâu khó khăn nhất trong CKH chính là có tổ chức chuyên kinh doanh nợ và định giá, bán theo giá thị trường. Khi định giá, xếp hạng chuẩn sẽ đáp ứng được kỳ vọng của cả bên bán và bên mua.
Kỳ vọng với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, với tiềm lực tài chính dự kiến sẽ được tăng vốn điều lệ lên 2 nghìn tỷ đồng và nguồn nhân lực chất lượng, VAMC sẽ đạt được mục tiêu quan trọng trong xử lý nợ xấu ngay năm 2014 này.